Xem Nhiều 4/2023 #️ Xuất Khẩu Diễn Biến Ra Sao Khi Mỹ Áp Thuế Chống Bán Phá Giá Cá Tra Việt Nam? # Top 12 Trend | Fcbarcelonavn.com

Xem Nhiều 4/2023 # Xuất Khẩu Diễn Biến Ra Sao Khi Mỹ Áp Thuế Chống Bán Phá Giá Cá Tra Việt Nam? # Top 12 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Xuất Khẩu Diễn Biến Ra Sao Khi Mỹ Áp Thuế Chống Bán Phá Giá Cá Tra Việt Nam? mới nhất trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Vừa qua, khi Bộ thương mại Mỹ (DOC) có thông báo sơ bộ về quyết định xem xét hành chính lần thứ 13 (POR13) đối với mặt hàng cá tra phi lê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ đã gây hoang mang cho doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam.

Tuy nhiên, đây chưa phải là thông báo chính thức, các doanh nghiệp vẫn còn thời gian để nộp hồ sơ để Bộ Thương mại Mỹ xem xét lại thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá tra Việt Nam.

Khi Mỹ công bố quyết định này, phía Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã có ý kiến cho rằng, đợt xem xét thứ 13 thể hiện sự không công bằng, trái ngược với các quy định về luật chống bán phá giá thông thường.

Đồng thời, mang tính áp đặt vô lý đối với các doanh nghiệp đang xuất khẩu sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh vào Mỹ. Trong đó, mức thuế chống bán phá giá trong kỳ 13 là 2,39 USD/kg, cao gấp 3 lần so với kỳ áp thuế lần thứ 12.

Cụ thể, Bộ Thương mại Mỹ đã áp dụng các yếu tố bất lợi có sẵn và tính biên độ phá giá đối với Công ty Cổ phần Gò Đàng (GODACO) – Tiền Giang lên mức 2,39 USD/kg. Bộ Thương mại Mỹ đã cho rằng, GODACO không hợp tác trong quá trình xem xét và không cung cấp đầy đủ dữ liệu cần thiết cho Bộ Thương mại Mỹ để điều tra.

Trả lời vấn đề này, ông Nguyễn Hoàng Đạo, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Gò Đàng nhấn mạnh, đối với kỳ xem xét thuế chống bán phá giá lần thứ 13, Gò Đàng đã mời các luật sư từ Mỹ để chuẩn bị rất kỹ hồ sơ, chứng từ chi phí nhân công, xử lý môi trường, điện nước, giá thành nguyên liệu… để gửi cho Bộ Thương mại Mỹ, nhưng Bộ Thương mại Mỹ đã áp dụng các quy định bất hợp lý của Luật chống bán phá giá.

Hiện nay, Công ty Gò Đàng cùng 10 doanh nghiệp xuất khẩu cá tra sang Mỹ như: Công ty cổ phần Hùng Vương, Công ty TNHH thủy sản Biển Đông, Công ty Hùng Hậu, Công ty Thực phẩm An Giang… chuẩn bị hồ sơ gửi sang Bộ Thương mại Mỹ để đề nghị xem xét lại thuế chống bán giá đối với cá tra phi lê đông lạnh của Việt Nam.

Dự kiến đến ngày 12/10/2017 sẽ kết thúc kỳ hạn nhận hồ sơ xem xét. Khi hoàn tất thủ tục này, đến tháng 3/2018, Bộ Thương mại Mỹ sẽ có quyết định chính thức áp thuế chống bán phá giá lên sản phẩm cá tra Việt Nam.

Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, các vụ kiện về việc bán phá giá của cá tra Việt Nam diễn ra hàng năm. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, Mỹ vẫn đang áp mức thuế đối với sản phẩm cá tra Việt Nam là 69 cent/kg.

Với mức thuế này, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam vào Mỹ vẫn đang cầm cự được và hoạt động xuất khẩu vẫn diễn ra bình thường, chưa ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu cá tra của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp bị áp thuế nói riêng.

Sẽ cán đích 1,7 tỷ USD vào cuối năm

Mặc dù cá tra Việt Nam vào Mỹ đang phải canh tranh gay gắt từ Hiệp hội cá nheo Mỹ, nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam đã có nhiều chiến lược để đẩy mạnh phát triển con cá tra trên thị trường thế giới.

Không riêng tại thị trường Mỹ, các thị trường “khó tính” như Nhật Bản, châu Âu cũng đang hướng đến lựa chọn sản phẩm cá tra Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm chế biến sẵn.

Do đó, ngành cá tra Việt Nam vẫn đang trên đà phát triển mạnh.

Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản chia sẻ, người tiêu dùng Mỹ nói riêng và người tiêu dùng thế giới nói chung đang tăng nhu cầu sử dụng cá tra từ Việt Nam, nhưng nguồn nguyên liệu trong nước lại có hạn.

Vì vậy, đường đi của cá tra vẫn tiếp tục rộng mở. Cụ thể, xuất khẩu cá tra trong 9 tháng năm 2017 đạt hơn 1,3 tỷ USD, trong đó thị trường nhập khẩu cá tra mạnh nhất là Mỹ. Với đà tăng trưởng xuất khẩu như hiện nay, đến cuối năm 2017, xuất khẩu cá tra có thể đạt kim ngạch 1,7 tỷ USD, tăng 1,8% so với năm 2016.

Với những thị trường khác như Nga, Trung Quốc, Mexico… các doanh nghiệp cần đoàn kết hơn nữa trong việc niêm yết giá bán, tránh giảm giá bán, sẽ kéo theo giảm chất lượng, làm mất hình ảnh cá tra Việt Nam”, bà Nguyễn Thị Hồng Minh, Chủ tịch danh dự Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản chia sẻ.

Theo ông Nguyễn Hoàng Đạo, hiện tại các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra Việt Nam đang hướng tới sản phẩm chất lượng cao để dễ dàng thâm nhập các thị trường “khó tính”, cũng là giải pháp nâng cao giá trị của cá tra Việt Nam. Bởi khi đã đáp ứng được tiêu chuẩn của những thị trường này, thì sản phẩm cá tra khẳng định thương hiệu dễ dàng và dễ cạnh tranh ở những thị trường khác.

Trên thực tế, việc nộp hồ sơ để Bộ Thương mại Mỹ xem xét lại thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh của Việt Nam kỳ 13 là một bước ngoặt mở ra hướng đi cho cá tra Việt Nam. “Khi phía Mỹ công bố mức thuế hợp lý, sẽ tạo cơ hội hơn nữa cho con cá tra nói chung và các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cá tra vào thị trường tiêu thụ mạnh mẽ dù khó tính này”, ông Đạo cho biết thêm.

Nguồn: TTXVN Từ khóa: xuất khẩu, diễn biến, Mỹ, áp thuế, chống bán phá giá, cá tra, Việt Nam

Mỹ Áp Thuế Chống Bán Phá Giá Cá Tra Kỳ Ii: Việt Nam Có Cơ Sở Để Khởi Kiện?

Bộ Công Thương Việt Nam và các tổ chức Hiệp hội trong nước đã có ý kiến khẳng định mức thuế Mỹ áp dụng cho cá tra Việt tại POR 13 là không công bằng và bảo hộ cao quá mức. Việt Nam hoàn toàn có thể có những biện pháp để đề nghị phía Hoa Kỳ xem xét lại một cách thỏa đáng.

Căn cứ kết luận của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) tại kỳ rà soát chính sách thương mại lần thứ 13 (POR 13), các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam sẽ bị áp dụng mức thuế chống bán phá giá từ 2,39 USD/kg – 7,74 USD/kg.

Mức thuế “tiêu diệt đối thủ”

Với mức thuế “gấp đôi giá bán” như quyết định , các chuyên gia và doanh nghiệp đều nhận định doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam sẽ bị “cấm cửa” vào thị trường Mỹ, trừ hai doanh nghiệp Biển Đông và Vĩnh Hoàn vì có mức thuế thoả thuận. Cùng với đó, theo ông Dương Nghĩa Quốc – Chủ tịch Hiệp hội cá tra Việt Nam (VINAPA), việc Mỹ không sử dụng số liệu nước thứ 3 như Bangladesh, Indonesia mà dùng số liệu có sẵn (AFA) để tính mức áp thuế cho cá tra Việt Nam trong đợt POR 13 “là sự bảo hộ quá mức”.

“Điều này được khẳng định là chưa có tiền lệ. Thậm chí thể hiện sự áp đặt chủ quan, thiếu cơ sở của DOC. Cho thấy quyết tâm của Hiệp hội Cá nheo Mỹ là đình chỉ sản phẩm fille đông lạnh cá tra vào thị trường này” – ông Quốc nhấn mạnh. Nói như ông Trương Đình Hoè- Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP): “Quyết định áp đặt của DOC đi ngược lại tiến trình tự do thương mại, quyền lợi người tiêu dùng Mỹ, ảnh hưởng đến ngành cá tra, sinh kế của nông dân Việt Nam”.

TS Nguyễn Thị Hồng Minh, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy sản thậm chí còn đánh giá, mức thuế DOC áp lần này mang tính “tiêu diệt đối thủ” chứ không phải chống bán phá giá. Bởi theo tìm hiểu, nhiều doanh nghiệp nước ngoài bị Mỹ áp thuế chống bán phá giá quá cao đã phải bỏ thị trường.

Có cơ sở và có tiền lệ

Trao đổi với DĐDN, GS. TS Trần Việt Dũng – Trưởng khoa Luật quốc tế, Đại học Luật TP HCM, chuyên gia về bán phá giá khẳng định, Việt Nam có đủ cơ sở để khởi kiện Mỹ trong việc áp thuế chống bán phá giá cá tra quá mức lần này.

“Theo quy định tại Điều 2.4 tại Hiệp định về Chống bán phá giá, WTO yêu cầu so sánh phải đảm bảo công bằng. Tuy nhiên, hiện Mỹ đang sử dụng phương pháp “Quy về 0 – Zeroing” trong tính toán biên độ phá giá. Cùng với đó, Mỹ có thể thay đổi quốc gia cơ sở cho việc tính toán. Điều này khiến biên độ phá giá cao lên, mức thuế doanh nghiệp Việt Nam phải chịu vì vậy mà tăng cao”, Chuyên gia Dũng phân tích, đồng thời nhận định, Việt Nam có cơ sở để kiến nghị Mỹ xem xét thay đổi cách tính thuế, yêu cầu không áp dụng phương pháp “Quy về 0”.

GS.TS Trần Việt Dũng còn cho biết thêm, tiền lệ Việt Nam đã từng thắng trong vụ việc tương tự về tôm. DOC sau đó đã phải giảm mức thuế chống bán phá giá đối với tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam. “Không riêng với Việt Nam, ngay cả với tôm Thái Lan, Mỹ cũng đã nhiều lần thua kiện tương tự nhưng vẫn không bỏ cách tính thuế này” – ông Dũng nhấn mạnh.

Có cùng quan điểm, ông Bùi Huy Sơn, Tham tán Công sứ Thương mại, Trưởng cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, tại lần công bố kết quả áp thuế cuối cùng của POR 9, Việt Nam cũng đã đề nghị phía Hoa Kỳ phải xem xét lại. Khi phía DOC không thể xem xét lại một cách thỏa đáng, Việt Nam đã khởi kiện lên Tòa án thương mại quốc tế Hoa Kỳ (CIT).

“Kể cả trong trường hợp phán quyết cuối cùng của tòa án (thường kéo dài 3-4 năm), mà vẫn không thỏa đáng, Việt Nam thậm chí có thể khởi kiện lên đến Tòa án thương mại liên bang. Do vậy, tôi có thể nói rằng, Việt Nam vẫn có cơ sở, có quyền và trên thực tế cũng đã từng áp dụng quyền của mình để đi đến cùng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam”, ông Sơn nhấn mạnh.

Nguồn: Báo Diễn đàn doanh nghiệp

Thuế Bán Phá Giá Cá Tra Việt Nam Tại Mỹ: Sự Phi Lý Khi Lựa Chọn Nước Tương Đồng Indonesia – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam

Ngày 29/3/2016, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố các kết quả cuối cùng đợt rà soát hành chính lần thứ 11 của lệnh chống bán phá (CBPG) với mặt hàng fillet cá tra/basa đông lạnh từ Việt Nam. Hai nhà xuất khẩu lớn nhất, HVG và Tafishco đã nhận được mức thuế suất tương ứng 0,41 USD/kg và 0,97 USD/kg, trong khi mức thuế suất bình quân là 0,69 USD/kg đã được đánh vào các công ty hưởng mức thuế suất riêng biệt (nghĩa là các công ty có thể chứng minh sự độc lập từ Chính phủ Việt Nam). Cuối cùng, một mức thuế suất trừng phạt là 2,39 USD/kg từ các giai đoạn trước đã được duy trì đối với tất cả các nhà xuất khẩu Việt Nam khác. Rõ ràng, DOC đã quá vô lý và bất chấp tất cả lựa chọn một nước không tương đồng kinh tế với Việt Nam để tính toán mức thuế CBPG nhập khẩu fillet cá tra/basa của Việt Nam vào thị trường Mỹ.

Sự phi lý

Trong tiến trình vụ kiện CBPG của Mỹ, cáo buộc đối với các nhà xuất khẩu là họ đã tham gia bán hàng vào thị trường Mỹ với mức giá thấp hơn giá trị thị trường hợp lý (giá trị thông thường) của hàng hóa, mà việc bán hàng này đã gây ra sự tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất nội địa của Mỹ. Giá trị thông thường điển hình là giá mà nhà xuất khẩu bán hàng hóa tại thị trường nội địa của nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, một ngoại lệ được thực hiện đối với các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường (“NME”) như Việt Nam và Trung Quốc. Căn cứ vào việc đối xử Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, DOC đã từ chối dữ liệu chi phí và giá cả được báo cáo từ Việt Nam. Thay vào đó, theo pháp luật Mỹ, DOC xác định giá trị thông thường của fillet cá tra/basa bằng việc áp dụng phương pháp xây dựng chi phí, trong đó định giá tất cả các yếu tố đầu vào riêng lẻ được sử dụng để sản xuất fillet cá (cá nguyên con, con giống, thức ăn, hóa chất, chi phí nhân công, điện,…) dựa trên các mức giá đang phổ biến tại một quốc gia giá trị thay thế. Do đó, rõ ràng là việc lựa chọn một quốc gia giá trị thay thế phù hợp là một quyết định quan trọng nhất, có ảnh hưởng lớn đối với kết quả cuối cùng trong một vụ kiện CBPG.

Theo pháp luật Mỹ, DCO được ủy thác lựa chọn quốc gia giá trị thay thể đối với Việt Nam căn cứ vào hai tiêu chí: Một là, quốc gia đó nên “tương đồng về mặt kinh tế” đối với Việt Nam về mặt tổng thu nhập quốc dân tính theo đầu người (“GNI”); Hai là quốc gia đó nên là một “nhà sản xuất đáng kể” hàng hóa có thể so sánh được. Trong đợt rà soát lần thứ 11, DOC đã lựa chọn Indonesia làm quốc gia giá trị thay thế so với Việt Nam, và vì vậy đã xác định giá trị thông thường của fillet cá tra/basa bằng việc định giá tất cả các yếu tố sản xuất đầu vào riêng lẻ căn cứ trên giá tại thị trường Indonesia và sau đó tập hợp chúng lại để có được giá trị thông thường của fillet cá xuất khẩu. Như được giải thích bên dưới, việc DOC ưu tiên lựa chọn Indonesia làm quốc gia giá trị thay thế là trái pháp luật và là lý do quan trọng nhất dẫn tới các mức thuế CBPG rất cao đối với fillet cá Việt Nam.

Cá tra fillet Việt Nam vẫn “long đong” tại thị trường Mỹ – Ảnh: LHV

Tại sao?

Không có tranh cãi nào về việc Indonesia không tương đồng kinh tế với Việt Nam. Tại sao lại như vậy? Vào lúc bắt đầu tiến trình của mỗi đợt rà soát, Văn phòng Chính sách của Bộ Thương mại (“OP”) ban hành một danh sách các quốc gia được cân nhắc là tương đồng về mặt kinh tế với Việt Nam, căn cứ trên tổng thu nhập quốc dân theo đầu người (GNI) của các quốc gia riêng lẻ. Danh sách của OP ban hành vào thời điểm bắt đầu đợt rà soát hành chính thứ 11 đã không bao gồm Indonesia do GNI của Indonesia đã bỏ xa GNI của Việt Nam. Do đó, theo luật và tiền lệ đã được xác lập, DOC đã được yêu cầu lựa chọn một quốc gia giá trị thay thế từ danh sách các quốc gia tương đồng về mặt kinh tế của OP, bao gồm Bangladesh, Philippines và Ấn Độ. Tất cả các quốc gia này không chỉ tương đồng về mặt kinh tế với Việt Nam mà còn có các nhà sản xuất fillet cá tra/basa đáng kể. Tất cả ba quốc gia này, đặc biệt Bangladesh, có đủ dữ liệu giá chất lượng cho phép DOC xác định giá trị thông thường của fillet cá chính xác.

Sự kiện này nêu lên một câu hỏi nghiêm túc là tại sao Bộ Thương mại Mỹ đành phải lựa chọn một quốc gia không tương đồng về mặt kinh tế, Indonesia, làm quốc gia giá trị thay thế. Các giải thích của DOC về vấn đề này còn lưỡng lự và không có sức thuyết phục, mâu thuẫn với thực tiễn và tiền lệ tòa án.

Lịch sử tiến trình CBPG đối với fillet cá Việt Nam thể hiện hơn 10 năm qua, cho đến đợt rà soát hành chính lần thứ 8, căn cứ theo việc lựa chọn Bangladesh làm quốc gia giá trị thay thế nhất quán, DOC đã xác định giá trị thông thường của fillet cá tra/basa Việt Nam căn cứ trên dữ liệu giá của Bangladesh. Cần phải được nhấn mạnh rằng trong suốt giai đoạn này, Bangladesh và Indonesia đều nằm trong danh sách các quốc gia tương đồng về mặt kinh tế của OP và lúc này Bangladesh đã được ưu tiên lựa chọn một cách kiên định so với Indonesia. Trong suốt giai đoạn này, dù các mức thuế CBPG đã được đánh vào các đợt xuất khẩu của Việt Nam nhưng ở một mức độ được cho là hợp lý và không mang tính trừng phạt. Đó là các mức thuế suất CBPG được tính toán hết sức công bằng và chính xác để đảm bảo sự cân bằng giữa việc bảo vệ nền công nghiệp cá da trơn Mỹ và việc cho phép kinh doanh cá rộng mở, công bằng từ Việt Nam. Những người thụ hưởng cuối cùng là các khách hàng Mỹ, những người đã có thể mua fillet cá tra/basa với các mức giá phải chăng, thay vì phải thanh toán các mức giá độc quyền và cao quá đáng.           Việc nhập khẩu từ Việt Nam cũng đã duy trì hàng ngàn công việc trong chuỗi cung ứng, từ Việt Nam đến thị trường Mỹ. Chỉ có một bên bị thiệt hại là nền kỹ nghệ nội địa Mỹ.

Do thất bại về cơ bản trong nỗ lực khống chế việc nhập khẩu từ Việt Nam ngay cả sau nhiều đợt rà soát chống bán phá giá bởi DOC, các chủ trại nuôi nội địa của Mỹ tại Mississippi, Arkansas và Louisiana và Hiệp hội các chủ trại cá da trơn Mỹ (CFA) đã yêu cầu thay đổi các quy tắc của trò chơi trong một đêm. Do thua tất cả các trận đánh trước đây theo luật và theo các sự kiện thực tế, trong đợt rà soát hành chính lần thứ 8, CFA đã gây sức ép lớn đối với DOC, khiến DOC phải thay đổi đội ngũ điều tra mà đã giải quyết vụ kiện này hết sức mẫn cán trong suốt thời gian trước đó. Tuy nhiên, CFA đã vẫn phải đối mặt với chướng ngại vật chính trong mục tiêu của mình để ép buộc một sự thay đổi mang tính phương pháp luận nhằm đạt mức thuế suất CBPG rất cao bởi vì Indonesia thì đã được loại bỏ ngay tức khắc mà không cần phải giải thích khỏi danh sách các quốc gia tương đồng về mặt kinh tế của OP trong đợt rà soát hành chính lần thứ 8. Tuy nhiên, CFA đã kiên cường vận động hành lang DOC để chuyển đổi quốc gia giá trị thay thế từ Bangladesh, một quốc gia tương đồng về mặt kinh tế, sang Indonesia, một quốc gia không tương đồng về mặt kinh tế.

Các nhà xuất khẩu Việt Nam và VASEP đã bị sốc khi DOC lựa chọn Indonesia thay vì Bangladeesh vào tháng 3/2016 làm quốc gia giá trị thay thế. Việc chuyển đổi quốc gia giá trị thay thế đã báo hiệu một kỷ nguyên của các mức thuế CBPG cao, gây tranh cãi và mang tính trừng phạt một cách bất hợp lý đối với các nhà xuất khẩu fillet cá tra/basa Việt Nam.

DOC nói gì?

Sự lựa chọn Indonesia của DOC rõ ràng là bất hợp lý vì nhiều lý do. Trước tiên, thực sự không thể giải thích được việc DOC đột ngột lựa chọn Indonesia, chỉ sau khi quốc gia này được loại bỏ một cách rõ ràng bởi chính DOC do không đáp ứng tiêu chí tính tương đồng về mặt kinh tế. Thứ hai, ngay cả khi bỏ qua vấn đề thiếu tính tương đồng về mặt kinh tế, lập luận đề xuất của DOC khi lựa chọn Indonesia thay vì sự lựa chọn Bangladesh đã được “ổn định” – rằng chỉ riêng Indonesia có đủ dữ liệu giá đáng tin cậy đối với cá nguyên con trong khi dữ liệu giá của Bangladesh là không đáng tin cậy – là không thuyết phục và mâu thuẫn với hàng đống chứng cứ được nộp cho DOC.

Dữ liệu Thống kê Thủy sản của Indonesia (IAS) được sử dụng để định giá cá nguyên con, đã bị chỉ trích bởi Tổng Cục trưởng khi đó của IAS, ông Ketuk Sugama. Trong một bản tuyên thệ đã ký mà đã được nộp cho DOC, ông Sugama giải thích rằng dữ liệu IAS đã phản ánh dữ liệu giá của nhiều loài cá khác hẳn nhau được nuôi trồng nhiều phương pháp thủy sản hơn là bằng ao (như ở Việt Nam), và đã bị bóp méo bởi các giá bán lẻ đối với cá đã chế biến. Trái lại, VASEP đã nộp nhiều công văn từ các viên chức chính phủ Bangladesh, chứng minh chất lượng cao của dữ liệu giá bán buôn của Cơ quan Tiếp thị Nông nghiệp Bangladesh (DAM) đối với các loài pangasius hypophthalmus được nuôi trong ao (mà tương đương với cá tra/basa được nuôi trong ao).

Tuy vậy, DOC đã từ chối một cách bất hợp lý dữ liệu DAM bằng việc chỉ đơn giản dựa vào một vài bản tuyên thệ tự thực hiện được cung cấp bởi các nhà tư vấn có trả tiền của CFA mà đã cáo buộc một cách sai lầm rằng dữ liệu DAM có bao gồm giá bán cá chết, trong khi Bộ Thương mại chấp nhận một cách mù quáng dữ liệu của IAS, hoàn toàn lờ đi bản tuyên thệ có thẩm quyền của ông Sugama. VASEP đã phản đối quyết định này ra trước Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ và kết quả cuối cùng vẫn đang được chờ đợi.

Trong khi chờ đợi, với việc chuyển sang thực tiễn áp dụng bất hợp pháp của mình để lựa chọn một quốc gia không tương đồng về mặt kinh tế, Indonesia, là quốc gia giá trị thay thế chính đối với Việt Nam, DOC đã tiếp tục đánh thuế CBPG ở mức độ cao mang tính ngăn cấm trong các đợt rà soát hàng năm lần thứ 9, thứ 10, và 11. VASEP đã nộp kháng cáo tại tòa phản đối các quyết định tiếp theo của DOC.

Lối thoát?

Gần đây, có một tin tốt cho các nhà xuất khẩu Việt Nam đang khó khăn. Vào ngày 30/3/2016, Tòa án Thương mại Quốc tế đã tuyên án thuận lợi cho VASEP về vấn đề quốc gia giá trị thay thế (duy trì sự lựa chọn Bangladesh của DOC) và sự đáng tin cậy toàn diện của dữ liệu DAM của Bangladesh, trong kháng cáo được nộp bởi CFA phản đối kết quả cuối cùng của đợt rà soát hành chính lần thứ 7. Tuy nhiên, vẫn còn chưa rõ mức độ quyết định này sẽ giúp đỡ VASEP trong các vụ tranh tụng trong tương lai như thế nào.

Thậm chí trong khi các nhà xuất khẩu Việt Nam đã và đang vật lộn với sự thất thường của các chu trình rà soát hàng năm của tiến trình CBPG, CFA đã tiếp tục tạo ra thêm các hàng rào phi thuế quan chống lại việc xuất khẩu fillet cá tra/basa từ Việt Nam. Căn cứ theo các nỗ lực vận động hành lang của CFA, bắt đầu từ ngày 1/3/2016, tất cả các nhà xuất khẩu cá tra/basa phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của Cơ quan Kiểm tra và An toàn thực phẩm (FSIS) trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA). Các tiêu chuẩn tương đồng và chế độ kiểm tra/chứng nhận toàn quốc của USDA-FSIS rất phức tạp và sẽ là một thử thách đối với Việt Nam. May mắn thay, một giai đoạn chuyển tiếp 18 tháng can thiệp vào trước khi các tiêu chuẩn này có hiệu lực đầy đủ.

Do đó, một điều lưu ý quan trọng đối với VASEP và Chính phủ Việt Nam là tiếp tục đấu tranh với vấn đề lựa chọn quốc gia giá trị thay thế với Mỹ. Chính quyền Mỹ nên được thông báo rằng thực tiễn hoạt động của DOC về vấn đề này là mâu thuẫn nội tại. Trong một tiến trình CBPG đang diễn ra song song đối với một sản phẩm thủy sản khác – tôm đông lạnh – từ Việt Nam, DOC tiếp tục lựa chọn Bangladesh làm quốc gia giá trị thay thế. Sự kiện này đề xuất rằng việc lựa chọn Indonesia làm quốc gia giá trị thay thế không dựa trên luật hay dữ kiện thực tế; thay vào đó, nó là kết quả của sự lựa chọn định hướng kết quả, được thiết kế chỉ nhằm để tăng biên độ CBPG. Chính quyền Việt Nam cũng nên cân nhắc sử dụng ảnh hưởng từ các quan hệ mới và các động thái xung quanh Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) chống lại thực tiễn hoạt động bất hợp pháp và bất công của Bộ Thương mại trong vụ kiện CBPG fillet cá Việt Nam.

Việt Nam Đủ Điều Kiện Xuất Khẩu Cá Tra, Basa Sang Mỹ – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam

Việt Nam được phép xuất khẩu cá da trơn sang thị trường Mỹ

Thông báo của FSIS sẽ được công bố trên Công báo liên bang chính thức vào ngày 19/9 với thời gian nhận phản hồi trong vòng 30 ngày.

Sau khi duyệt hồ sơ kế hoạch của Việt Nam, FSIS đã lên kế hoạch kiểm tra thực địa vào tháng 5/2018. Kiểm tra thực địa đã xác nhận rằng kế hoạch mà Việt Nam đưa ra luôn bám sát thực tế và FSIS chỉ phát hiện một điểm khác biệt rất nhỏ so với hồ sơ gửi đi nhưng lỗi này không ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm. Một trong số những lỗi này là vi phạm HACCP nhưng không đáng kể.

Khi những lỗi trên được khắc phục, FSIS đã quyết định Việt Nam và các nước khác có hệ thống giám sát cá da trơn tương đương với hệ thống của Mỹ. Do đó, Việt Nam sẽ tiếp tục xuất khẩu cá tra, basa sang thị trường Mỹ mà không vướng bất cứ rào cản phi thuế quan nào. FSIS cho biết, kết quả kiểm tra thực địa hệ thống giám sát cá da trơn của Việt Nam không phát hiện bất cứ lỗi nào đe dọa trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng.

FSIS đã hoàn tất việc rà soát hồ sơ, đánh giá thực địa và xác minh quá trình khắc phục lỗi và toàn bộ các vấn đề còn tồn tại cũng đã được giải quyết. FSIS kết luận rằng, hệ thống giám sát cá da trơn của Việt Nam tương đương với hệ thống của Mỹ. Theo số liệu của USDA, thị phần xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam luôn ổn định trong 5 năm qua tại Mỹ (khoảng 90 – 92%). Trong khoảng thời gian này, tỷ lệ tiêu thụ cá da trơn tại Mỹ (nội địa và nhập khẩu) từ Việt Nam dao động 45,5 – 46,8%, với mức trung bình 5 năm khoảng 45,7%.

FSIS cho biết, luật dự kiến có thể mang lại lợi ích cho ngành công nghiệp cá da trơn bằng cách ổn định thị trường và tiếp tục mở cơ hội giao thương giữa Mỹ và Việt Nam. Người tiêu dùng tại Mỹ có nhiều sự lựa chọn khi mua cá da trơn, đặc biệt là họ cá tra, basa – loài cá bản địa của Việt Nam, Trung Quốc và một số quốc gia châu Á. Cá tra, basa có hương vị, màu sắc và thớ thịt khác biệt hơn các loài cá da trơn tại Mỹ. Giao dịch cá tra, basa giữa Mỹ và Việt Nam được duy trì sẽ mang lại sự lựa chọn phong phú cho người tiêu dùng tại Mỹ.

Trong khoảng thời gian nhận phản hồi 30 ngày, FSIS sẽ cân nhắc các ý kiến đóng góp rồi mới đưa ra quy định cuối cùng. Mặc dù Chương trình giám sát cá da trơn của USDA sẽ khiến ngành cá da trơn nội địa và hãng nhập khẩu phải gánh thêm chi phí, nhưng dường như giờ đây mọi tham vọng lật đổ cá tra, basa nhập khẩu từ phía các nhà sản xuất cá da trơn nội địa tại Mỹ đã bị sụp đổ hoàn toàn.

Bạn đang xem bài viết Xuất Khẩu Diễn Biến Ra Sao Khi Mỹ Áp Thuế Chống Bán Phá Giá Cá Tra Việt Nam? trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!