Xem Nhiều 3/2023 #️ Xây Dựng Mô Hình Sinh Sản Nhân Tạo Giống Cá Trắm Đen Tại Hải Phòng # Top 12 Trend | Fcbarcelonavn.com

Xem Nhiều 3/2023 # Xây Dựng Mô Hình Sinh Sản Nhân Tạo Giống Cá Trắm Đen Tại Hải Phòng # Top 12 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Xây Dựng Mô Hình Sinh Sản Nhân Tạo Giống Cá Trắm Đen Tại Hải Phòng mới nhất trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Xây dựng mô hình sinh sản nhân tạo giống cá Trắm đen tại Hải Phòng

Chiều ngày 09/3/2018, tại Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hải Phòng diễn ra Hội nghị tư vấn đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cấp thành phố: “Xây dựng mô hình sinh sản nhân tạo giống cá Trắm đen (Mylopharyngodon piceus) tại Hải Phòng”. Thạc sĩ Nguyễn Hữu Xuân, Phó Giám đốc Trung tâm Giống và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao (Trung tâm) làm chủ nhiệm dự án.

Cá trắm đen là đối tượng nuôi thủy sản có giá trị kinh tế cao, chất lượng thịt thơm ngon, hàm lượng dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Theo đông y, cá trắm đen có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch, chống ôxy hóa. Việc chủ động sản xuất được con giống cá trắm đen tại Hải Phòng sẽ góp phần giúp các hộ nuôi chủ động lựa chọn được nguồn giống có chất lượng, giá thành phù hợp. Vì vậy, từ tháng 9/2016 đến tháng 11/2017, sau khi được Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I chuyển giao công nghệ, thạc sĩ Nguyễn Hữu Xuân cùng các cộng sự đã tiến hành xây dựng mô hình và quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo giống cá trắm đen phù hợp với điều kiện Hải Phòng cũng như đào tạo cán bộ kỹ thuật làm chủ quy trình công nghệ chuyển giao.

Kết quả sau 15 tháng, Trung tâm đã tiếp nhận, làm chủ 05 quy trình gồm: Quy trình kỹ thuật lựa chọn và nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ ; Quy trình kỹ thuật sử dụng kích dục tố, cho đẻ và ấp trứng; Quy trình kỹ thuật ương cá bột thành cá hương cỡ 3-3,5 cm ; Quy trình kỹ thuật ương từ cá hương cỡ 3-3,5 cm thành cá giống cỡ 12-15 cm ; Quy trình quản lý môi trường ao nuôi và phòng trừ dịch bệnh trên cá bố mẹ, cá hương và cá giống . Song song với đó, Trung tâm đã tiến hành chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật như: nhà xưởng, ao nuôi, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống bể đẻ, bể ấp trứng, dụng cụ, nguyên vật liệu và các điều kiện cần thiết khác để phục vụ sinh sản nhân tạo giống cá trắm đen theo yêu cầu của đơn vị chuyển giao. Từ đàn cá bố mẹ gồm 30 con (15 cá cái, 15 cá đực), đã nuôi vỗ có 23 con thành thục (12 cái, 11 đực). Tiếp đó, tiến hành sinh sản 3 đợt thu được 3.318.700 trứng (đạt tỉ lệ nở trung bình 67,22%), và thu được 1.404.171 cá bột. Nhóm nghiên cứu tiến hành ương 232.500 con cá bột thu được 121.350 cá hương (tỉ lệ sống đạt 52,33%); từ 6.300 con cá hương cỡ 3-3,5cm nuôi ương thành cá giống cỡ 12-15cm thu được 4.470 con, tỉ lệ sống trung bình đạt 71,03%…

Với những thành công trong nuôi vỗ cá bố mẹ thành thục, tỷ lệ đẻ trứng, thụ tinh, tỷ lệ nở và sống trong quá trình ương cá bột lên cá hương và cá giống, nhiệm vụ góp phần chủ động nguồn giống cá trắm đen có chất lượng trên địa bàn thành phố, nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình nuôi thương phẩm, nâng cao thu nhập cho hộ nuôi trồng thủy sản; đồng thời góp phần khôi phục, bảo tồn đa dạng sinh học và nguồn lợi cá trắm đen tự nhiên. Hội đồng khoa học nhất trí đề nghị nghiệm thu kết quả thực hiện với số điểm trung bình 86/100 điểm.

Nguyễn Trường Một số hình ảnh Xây dựng mô hình sinh sản nhân tạo giống cá Trắm đen tại Hải Phòng:

Cá trắm đen hương cỡ 3-3,5 cm thu được sau 28 ngày ương

Sinh Sản Nhân Tạo Giống Cá Bông Lau

Chọn cá bố mẹ

Cá bố mẹ được chọn ngoài tự nhiên từ các xuồng câu, chọn những cá thể khỏe mạnh, ít xây xát, giữ các cá trong bể có sục khí liên tục 3 – 4 ngày cho cá khỏe hoàn toàn rồi vận chuyển đi nuôi thuần dưỡng. Cá được nuôi chung với một số loài cá háu ăn như chép, mè vinh với mật độ 5 – 10 kg/m3. Dùng thức ăn viên với hàm lượng đạm 28 – 30%, khẩu phần ăn hàng ngày 2 – 3%.

Sau đó nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ trong bè đặt trên sông, kích thước (8x4x3)m= 96 m3, bè được đặt nổi và neo trên sông cố định, nơi có dòng chảy thẳng và liên tục. Nơi đặt bè không ảnh hưởng đến giao thông, nước sông nơi đặt bè không bị phèn, mặn, xa cống nước thải và thuận lợi trong giao thông, vận chuyển thức ăn.

Cá bố mẹ chọn nuôi được đánh số thứ tự cho cá bố mẹ bằng que nhọn đầu đánh số lên đầu của cá (dùng số thường đánh cho cá cái, số la mã đánh cho cá đực). Mùa vụ nuôi vỗ cá bố mẹ từ tháng 12 năm trước đến giữa tháng 11 năm sau. Cá thành thục và bước vào sinh sản từ tháng 8. Mùa cá đẻ kéo dài đến đầu tháng 11.

Thụ tinh nhân tạo

Ở cá bông lau nhìn bên ngoài rất khó phân biệt đực cái. Khi đến mùa sinh sản mới có sự biểu hiện ra bên ngoài, cụ thể cá đực có lỗ sinh dục dạng hơi tròn lồi ra, còn cá cái lỗ sinh dục hơi lõm vào hơn so với cá đực.

Chọn cá đực là những cá thể khỏe mạnh, vuốt ở mặt bụng gần lỗ sinh dục có tinh màu trắng sữa chảy ra. Chọn cá cái là những cá thể có bụng to, dùng que thu trứng quan sát tế bào trứng khi thấy hạt trứng to, tương đối đồng đều, dễ tách rời nhau, đo kích thước tế bào trứng phải đạt trung bình từ 1,3 mm trở lên, không có trứng non. Những năm qua, do cá đực thành thục chưa tốt nên tỷ lệ đực cái nên chọn là 2:1 hoặc 3:1.

Cho cá đẻ trong bể xi măng có thể tích (3x5x1)m=15 m3, mực nước sâu 0,8 -1m chứa 6 – 10 con cá bố mẹ có khối lượng trung bình 3,5 kg/con. Cá bông lau không đẻ tự nhiên trong bè do đó phải tiêm kích dục tố để kích thích cho cá rụng trứng. Sử dụng kích dục tố HCG kích thích cá sinh sản nhân tạo như cá tra, basa. Sử dụng phép tiêm nhiều lần cho cá cái để kích thích tế bào trứng hấp thu được chất kích thích làm tăng kích thước đường kính trứng đến mức tối đa vì đây là loài cá của sông Mêkông có đường di cư dài nên chúng cần được tiêm nhiều lần dẫn với thời gian dài để cho tế bào trứng được chín đồng đều hơn.

Trong 3 – 5 liều dẫn đầu tiên sử dụng kích dục tố HCG ở mức bằng nhau 500 UI/kg, khoảng cách giữa các lần tiêm là 24 giờ. Khi trứng đã đạt mức tối đa thì tiêm liều sơ bộ với liều lượng 1.000 – 1.500 UI/kg, khoảng cách từ liều dẫn đến liều sơ bộ cũng 24 giờ. Cuối cùng là liều quyết định với mức sử dụng 5.000 UI, khoảng cách từ liều sơ bộ đến liều quyết định 8 – 10 giờ. Liều tiêm cho cá đực 2.000 – 3.000 UI/kg cùng thời gian tiêm liều quyết định của cá cái. Thời gian hiệu ứng kích thích tố từ lúc tiêm liều quyết định đến khi rụng trứng 9 – 12 giờ.

Kiểm tra cá, dùng khăn sạch lau khô toàn thân, nhất là vùng bụng cá, dùng tay vuốt từ phía sau đầu cá chạy dọc theo 2 lườn bụng đến điểm cuối là lỗ sinh dục thì thấy trứng chảy thành dòng từ lỗ sinh dục cá cái. Ở cá đực, tinh cũng thoát ra từ lỗ sinh dục có màu trắng sữa. Trước khi thấy dấu hiệu rụng trứng thì tiến hành thu tinh cá đực trước; tinh được giữ trong nước muối sinh lý 0,9%. Dùng xilanh hút 2 ml nước muối sinh lý, sau đó hút 0,5 ml tinh bảo quản ở nhiệt độ thấp để kéo dài thời gian sống của tinh trùng.

Sau đó tiến hành vuốt trứng, bằng phương pháp thụ tinh khô, dùng lông gà quấy đều trứng và sẹ (tinh dịch), trong lúc quấy đều hỗn hợp trứng và sẹ cho thêm nước sạch vào từ từ và tạo điều kiện cho tinh trùng hoạt động, tăng xác suất thụ tinh cho trứng. Cá bông lau là loài cá rất yếu. Vì thế quá trình kiểm tra sự thành thục cũng như chọn lựa cá bố mẹ cho sinh sản thì thao tác phải nhanh, nhẹ nhàng. Chỉ được phép đưa cá vào băng ca kiểm tra và tiêm kích dục tố ngay dưới nước. Đối với cá cái, thời gian hiệu ứng kích thích tố là 12 giờ tính từ khi tiêm liều quyết định.

Ương cá

Cá bột bông lau sau khi nở 24 giờ thì tiêu hết noãn hoàng và bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài, chủ yếu là động vật phù du. Ương cá bông lau chia thành 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1, sau khi nở 24 giờ, cá bột được ương trong bể composite, mỗi bể thể tích là 1m3, mật độ từ 300 con/m3. Thay nước trong quá trình ương mỗi ngày một lần, mỗi lần 20 – 30% lượng nước trong bể. Trong 10 ngày đầu cho ăn Moina hoặc Moina kết hợp với Nauplius của Artemia. Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20 cho ăn Moina kết hợp với thức ăn dạng bột mịn 40% đạm. Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 30 cho ăn thức ăn mảnh 40% đạm. Sau 30 ngày tuổi cá đạt 0,21 – 0,7 g và dài 28 – 45 mm. Tỷ lệ sống của cá sau 30 ngày tuổi đạt 30,8 – 90,8%.

Giai đoạn 2, có thể ương cá bột trong bể composite thể tích 1 m3 với nhiều mật độ khác nhau như: 50, 100 hay 200 con/m3. Dùng một loại thức ăn viên có hàm lượng đạm 40%, sau 60 ngày tuổi cá đạt trọng lượng 3,2 – 3,5 gam/con, tương đương chiều dài 72,2 – 73,3 mm, tỷ lệ sống 10,9 – 98%.

Việc xác định thời gian hiệu ứng nhằm theo dõi chính xác thời điểm rụng trứng để tiến hành sinh sản nhân tạo được kịp thời. Trứng cá bông lau thuộc loại trứng dính nên sau khi cá đẻ, trứng được khử dính bằng dung dịch Tanin, sau đó được rửa lại bằng nước sạch và đem ấp trong bình Weiss sau 24 – 25 giờ thì trứng nở ở nhiệt độ 28 – 300C.

Theo Thành Công, Thủy sản Việt Nam

Nguồn

Tại hội thảo, các đại biểu được hướng dẫn kỹ thuật sản xuất giống và ương cá bông lau. Qua đó, các đại biểu cũng trao đổi và chia sẻ một số kỹ thuật nuôi cá bông lau như: cải tạo ao, chọn giống, phòng và trị bệnh trên cá và cách quản lý môi trường ao nuôi cá.

Tiến sĩ Nguyễn Quang Trung – Chủ nhiệm dự án cho biết: “Mục tiêu của dự án nhằm xây dựng thành công mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất, góp phần tăng thu nhập cho các hộ nuôi thủy sản, phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Sóc Trăng; đồng thời, đa dạng hóa các đối tượng nuôi cho người dân, góp phần bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh”.

Tuyết Xuân Nguồn

Ông Nguyễn Văn Kiệt, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng đã thành công với mô hình nuôi cá bông lau, mỗi ông Kiệt thu khoảng 1 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Văn Kiệt, 56 tuổi ngụ ấp Vàm Hồ, xã An Thạnh Nam, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng nhiều năm nay thành công với mô hình nuôi cá bông lau-loài cá đặc sản có cái miệng rộng. Năm 2018 này, gia đình ông Kiệt thu khoảng 1 tỷ đồng tiền lãi từ nuôi cá bông lau.

Chúng tôi đã vượt trên 40 km đường giao thông nông thôn tương đối khó khăn trên huyện Cù Lao Dung để tìm hiểu về mô hình nuôi cá bông lau duy nhất, rất thành công của ông Nguyễn Văn Kiệt, 56 tuổi ngụ ấp Vàm Hồ, xã An Thạnh Nam-xã cuối cùng trên cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu.

Anh Dương Thanh Tràng, cán bộ nông nghiệp xã An Thạnh Nam cho biết : ” Ông Kiệt là người đầu tiên áp dụng mô hình nuôi cá đặc sản bông lau trên địa bàn huyện. Sau này, có nhiều người cùng làm theo nhưng không thành công nên chán, bỏ nghề, chỉ còn ông Kiệt vẫn duy trì và phát triển tốt, nên năm nào nuôi cũng trúng lớn, vậy mới ngon… “.

Biết được đặc điểm trên, từ năm 2011, trên diện tích 8.000m2 mặt nước ( 8 công), ông Kiệt thả nuôi 12.000 con cá giống bông lau với giá mua 5.000 đồng/con từ các ghe tàu đánh bắt ngoài sông lớn. Sau 2 tháng nuôi, ông xuất bán khoảng 5.000 cá con giống với giá từ 12.000 đến 15.000 đồng/con; số còn lại ông nuôi thêm 10 tháng nữa và xuất bán được 8 tấn với giá 100.000 đồng/ký. Ở vụ nuôi đầu tiên này, sau khi trừ hết chi phí, ông Kiệt đã lãi được 800 triệu đồng từ tiền bán cá bông lau giống và cá bông lau thịt.

Ông Kiệt cho biết một số kinh nghiệm nuôi cá bông lau đặc sản: ” Mùa cá bông lau sinh sản thường từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Thời điểm này nguồn cá giống trên các sông khá nhiều. Vì vậy, muốn nuôi cá bông lau, lúc này người nuôi thu mua nguồn cá giống từ những người làm nghề đăng lưới, đẩy xiệp ven sông lớn, trên các bãi bồi dưới chân rừng ngâp mặn. Nguồn con giống các bông lau ngoài tự nhiên khá nhiều, người nuôi chỉ tốn công ương dưỡng. Thức ăn cho cá bông lau chủ yếu từ nguồn cá vụn nên cũng dễ tìm và chi phí thấp… “.

Từ năm 2014 đến nay, ông Kiệt đã chuyển hoàn toàn sang phương án nuôi và bán cá bông lau thịt. Ông lý giải: ” Hiện nay nguồn cá giống bông lau bị săn bắt ráo riết ngoài tự nhiên với đủ loại dụng cụ đánh bắt. Cá này thường rất yếu và độ rủi ro cao dễ dẫn đến hao hụt cho người nuôi. Cạnh đó, tôi chỉ mua loại cá bông lau đạt chuẩn để nuôi bán cá thịt. Làm vậy để cho ” chắc ăn” lại vừa góp phần không để cá con bị tận diệt rất oan uổng”.

Ông Kiệt chia sẻ thêm: ” Nuôi cá bông lau phải hết sức chú ý đến các loại dịch bệnh dễ phát sinh như đầy ruột, trắng chúng tôi nuôi cá bông lau phải sạch sẽ, thông thoáng…Mỗi ngày cá bông lau ăn 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều. Nếu nuôi nhiều thì dùng thức ăn là cám viên công nghiệp cho cá bông lau. Nếu nuôi đúng chuẩn thì sau 12 tháng, cá bông lau sẽ đạt trọng lượng từ 1-1,2 ký/ con… “.

Năm 2017, ông Kiệt đã xuất bán được 11 tấn cá bông lau với giá 110.000 đồng/ký, trừ hết chi phí, ông đã lãi ròng trên 800 triệu đồng. Năm 2018, ông Kiệt thu hoạch ước đạt 12 tấn cá bông lâu, với giá thương lái thu mua đặt cọc là 135.000 đồng/ký, ông Kiệt thu lãi 1 tỷ đồng.

Thừa thắng xông lên, trong năm 2018, từ nguồn lãi nuôi cá bông lau tích cóp các năm trước, ông Kiệt đã thuê thêm 40.000m2 mặt nước cạnh sông Tiền để thả nuôi 300.000 con tôm càng xanh và trăm ngàn con cá tra. Tôm càng xanh, cá tra càng về cuối năm 2018 giá bán càng tốt, ông Kiệt lãi ròng 1 tỷ đồng từ 2 loài thủy sản này.

Tựa bài do enternews đặt Theo Dân Việt Nguồn

Ông Lâm Văn Bình, ấp Giồng Bàng, xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải (Trà Vinh) vừa thu hoạch hơn 2 tấn cá bông lau thương phẩm được nuôi trong diện tích gần 2 ha ao nuôi tôm sú, đạt lợi nhuận trên 500 triệu đồng. Đây là mô hình nuôi thủy sản mới, có nhiều ưu thế để nhân rộng, tăng thu nhập cho nông dân.

Ông Lâm Văn Bình cho biết, xuất phát từ nghề nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng bán thâm canh gặp nhiều rủi ro, qua tìm hiểu, năm 2017, ông mạnh dạn chuyển sang nuôi cá bông lau. Với diện tích 3 ao, tổng diện tích gần 2ha mặt nước, ông thả nuôi 20.000 con cá giống, sau 1 năm nuôi, cá đạt trọng lượng từ 1,2 – 1,5 kg, giá bán 130.000 đồng/kg, trừ chi phí, lãi ròng trên 500 triệu đồng.

Theo ông Bình, từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, là mùa cá bông lau sinh sản nên nguồn cá giống trên các sông khá nhiều. Vì vậy, muốn nuôi cá bông lau, người nuôi phải “đặt hàng” nguồn con giống từ những người làm nghề đăng lưới, đẩy xiệp ven sông, trên các bãi bồi dưới chân rừng đem về ương dưỡng đạt kích cỡ như cá tra giống mới thả nuôi. Nguồn con giống tự nhiên khá nhiều, người nuôi chỉ tốn công ương dưỡng. Cá bông lau dễ nuôi, ít bệnh nên không tốn nhiều công chăm sóc. Thức ăn cho cá bông lau chủ yếu từ nguồn cá vụn nên cũng dễ tìm và chi phí thấp.

Hiện nay, ngoài việc tiếp tục nuôi cá bông lau, ông Bình còn ương dưỡng hơn 20.000 con cá bông lau để bán cá giống cho các hộ tại địa phương chuyển đổi nghề nuôi tôm. Cá bông lau giống được ông bình bán với giá 20.000 đồng/con.

Ông Trần Quốc Đoàn, Quyền Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Duyên Hải cho biết, hiện nay mô hình nuôi cá bông lau đã được nhân rộng thêm 7 hộ dân trong xã Long Vĩnh, với diện tích 3,2 ha, số lượng cá giống hơn 49.000 con. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã có kế hoạch hỗ trợ cho nông dân về mặt kỹ thuật từ việc dưỡng con giống đến quá trình nuôi nhằm đảm bảo tính hiệu hiệu quả.

Cá bông lau có giá trị kinh tế cao trên thị trường hiện hiện nay. Vì vậy, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện có kế hoạch đưa đưa cá bông lau vào danh sách vật nuôi trong chương trình đa dạng hóa con nuôi cho nghề thủy sản của huyện. Đơn vị cũng đang đề Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện tỉnh, Sở Công Thương hỗ trợ thêm về mặt xây dựng qui trình kỹ thuật, tìm đầu ra cho cá bông lau thương phẩm để khuyến khích các hộ dân nhân rộng mô hình thay thế diện tích nuôi tôm quảng canh, bán thâm canh vùng nước ngọt trong mùa mưa và nước lợ trong mùa nắng không đảm bảo hiệu quả.

Theo Dân tộc & Miền núi Nguồn

Mô Hình Sản Xuất Giống Cá Bống Bớp

Được sự hỗ trợ của Sở KH&CN, Công ty TNHH Dương Hùng Vương đã xây dựng thành công mô hình sản xuất giống cá bống bớp tại xã Quỳnh Liên (Quỳnh Lưu); được nghiệm thu và đánh giá đạt loại khá, khả quan cho việc ứng dụng kết quả, nhân rộng mô hình nhằm thúc đẩy sự phát triển nghề nuôi cá bống bớp tại ven biển Nghệ An.

Trong 2 năm (2010 – 2011), với trên 300 cặp cá bống bớp bố mẹ được thu mua từ Nam Định, mô hình đã triển khai được 3 đợt nuôi vỗ thành thục. Tỷ lệ sống của cá trong nuôi vỗ đạt trên 83%. Nuôi vỗ trong ao đất cho tỷ lệ cá cái phát triển tuyến sinh dục bình thường đạt 40,8% và tăng lên 53,7% khi chuyển tiếp vào nuôi vỗ trong bể xi măng. Tỷ lệ cá cái thành thục đủ tiêu chuẩn tuyển chọn tham gia sinh sản đạt 39,6%. Tỷ lệ cá cái sinh sản/số cá tuyển chọn đạt trên 40%.

Từ kết quả sinh sản nhân tạo, mô hình đã thu được trên 10 vạn cá bống bớp giai đoạn cá hương. Tỷ lệ sống trung bình trong ương cá bột lên cá hương (30 ngày) đạt 19,4%, chiều dài cá đạt 2,2 – 2,4 cm.

Tiếp đó, tiến hành ương từ cá hương lên đã thu được trên 5 vạn cá giống với kích thước từ 5 – 6 cm để cung cấp cho bà con nuôi cá bống bớp thương phẩm trong tỉnh. Tỷ lệ sống của cá giống đạt trung bình 72,1% sau 30 ngày ương.

Từ kết quả chuyển giao công nghệ và qua thực nghiệm sản xuất, công ty tiến hành tập huấn kỹ thuật cho trên 50 lượt người nuôi thủy sản ven biển tại Quỳnh Lưu, đã hoàn thiện và đưa ra quy trình sản xuất giống cá bống bớp phù hợp với điều kiện Nghệ An với các bước cơ bản.

Ông Tô Huy Vấn – Giám đốc Công ty TNHH Dương Hùng Vương cho biết, nếu vận dụng hết công suất, mô hình có thể sản xuất trên 50 vạn cá hương, cá giống/năm để cung cấp cho người nuôi trong tỉnh. Hiện nay, nhu cầu giống cá bống bớp trên thị trường trong và ngoài tỉnh rất lớn, do đó những trại sản xuất giống tôm kém hiệu quả có thể chuyển hoặc vận dụng thời gian không sản xuất giống tôm để sản xuất đối tượng này sẽ giúp kéo dài thời gian sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Khi nuôi vỗ thành thục trong bể, sử dụng thức ăn viên nổi (tỷ lệ 40% – 50%) có độ đạm 35% và thức ăn tươi sống (tỷ lệ 50% – 60%) như tép moi, cá, động vật thân mềm hai mảnh vỏ. Thức ăn của cá nên bổ sung thêm Vitamin E, C và chế phẩm sinh học.

Trong ương cá hương, thức ăn sử dụng là tảo, moina, artemia bung dù và artemia mới nở, một số loại thức ăn tổng hợp như: N0, N1 lan sy. Cá từ 10 ngày tuổi về sau cho ăn thêm thức ăn tự chế biến (tôm, cá, lòng đỏ trứng gà, vịt,…). Bổ sung thêm vitamin và các chế phẩm sinh học để tăng khả năng tiêu hóa và sức đề kháng cho cá. Thức ăn trong ương cá giống là Artemia, thức ăn tổng hợp (viên nổi) và thức ăn tự chế từ các nguyên liệu như: moi, cá tạp, bột ngũ cốc, các loại Vitamin A, C, D, E xay nhuyễn trộn đều.

Sinh Sản Nhân Tạo Cá Cảnh Biển

Từ đầu năm đến nay, Viện Hải Dương học Nha Trang đã cho sinh sản nhân tạo thành công gần 4.000 con cá khoang cổ, một loài cá sống ở vùng san hô. 3.000 con đã được thả trở lại vùng biển và gần 1.000 con vừa được xuất sang Pháp.

TS. Hà Lê Thị Lộc, Phòng Công nghệ Nuôi trồng – Viện Hải Dương học Nha Trang vừa cho biết như trên.

Cá khoang cổ chỉ sống tại vùng rạng san hô ở vùng biển nhiệt đới. Cá khoang cổ còn được gọi là cá hải quì vì ngoài tự nhiên chúng luôn luôn sống cộng sinh cùng hải quì. Hiện Việt Nam có 5 loài cá khoang cổ: màu đỏ, nửa đỏ nửa vàng, màu tím, màu đen, và màu vàng tươi.

Con cá khoang cổ cái dài khoảng 12cm, nặng 40 – 50g, gấp gần 3 lần so con đực. Sau khi cá cái đẻ trứng, cá đực có nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ trứng cho đến lúc nở thành con. Thời gian này kéo dài khoảng 10 ngày.

Cá khoang cổ ít có giá trị về mặt thực phẩm, nhưng nhờ sự đa dạng, phong phú về màu sắc và có khả năng thích nghi cao trong điều kiện nuôi nhân tạo nên những loài cá này đã được phát triển nuôi khá phổ biến ở qui mô gia đình và trong các khu du lịch, giải trí…

Từ năm 2002, các nhà khoa học ở Phòng Công nghệ Nuôi trồng – Viện Hải Dương học (Nha Trang) đã thử nghiệm sinh sản nhân tạo cá khoang cổ mà không có sự hiện diện của Hải Quì. Thức ăn cho cá khoang cổ có thể là tôm, cá, giun…. Tỷ lệ sống cá một tháng tuổi khá cao, dao động từ 40,59% đến 85,42%.

Cá khoang cổ đỏ.(Ảnh: H.Cát)

Tuy nhiên, hiện nay, Viện Hải Dương học Nha Trang chỉ mới nuôi và cho cá khoang cổ đỏ (Amphiprion frenatus Brevoort) đẻ thành công trong môi trường nhân tạo.

Giai đoạn từ năm 2006 – 2008, các nhà khoa học sẽ hoàn thiện công nghệ nuôi và cho cá sinh sản nhân tạo. Thời gian cá bố mẹ thành thục cho sinh sản vẫn còn kéo dài (18 tháng), do vậy chưa đánh giá được hiệu quả kinh tế.

Từ đầu năm đến nay, với mục đích phục hồi nguồn lợi thuỷ sản, 2.000 con cá khoang cổ do sinh sản nhân tạo đã được thả ở Hòn Mun, 1.000 con được thả ở vịnh Vân Phong. Ngoài ra, giữa tháng 8/2007, Viện Hải Dương học Nha Trang đã xuất sang Pháp khoảng 1.000 con cá khoang cổ. Giá sỉ ở thị trường cá cảnh đối với loài cá khoang cổ là từ 4.000 – 10.000 đồng/con.

Những năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ cá cảnh của thị trường trong và ngoài nước ngày càng gia tăng đã đẩy mạnh sự khai thác các loài cá cảnh và sinh vật cảnh ngoài tự nhiên. Vào năm 1999, một nghiên cứu cho thấy trung bình mỗi tháng khoảng 160.000 con cá cảnh biển bị đánh bắt.

Do đó, việc nghiên cứu công nghệ sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương mại cá khoang cổ đỏ còn là biện pháp nhằm góp phần giảm tải khai thác nguồn lợi tự nhiên, đồng thời cung cấp nguồn cá cảnh biển cho thị trường trong nước và thế giới.

Bạn đang xem bài viết Xây Dựng Mô Hình Sinh Sản Nhân Tạo Giống Cá Trắm Đen Tại Hải Phòng trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!