Top 9 # Vụ Kiện Bán Phá Giá Cá Basa Của Việt Nam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Fcbarcelonavn.com

Đương Đầu Với Kiện Chống Bán Phá Giá – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam

Những quy định cần biết

Bán phá giá là hiện tượng giá xuất khẩu của một sản phẩm từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của một sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo điều kiện thương mại thông thường. Về bản chất, bán phá giá trong thương mại quốc tế là hành vi phân biệt giá cả: đối với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự, nhưng giá xuất khẩu lại thấp hơn giá tiêu thụ nội địa. Đây được xem là một hành động nhằm chiếm lĩnh thị trường, tiến tới loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh.

Các doanh nghiệp cá tra Việt Nam muốn mở rộng thị trường cần phải chủ động đối phó với các vụ kiện CBPG – Ảnh: Huy Hùng

Mặc dù còn có nhiều quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước đều coi đây là hành vi thương mại không lành mạnh. Đa số chính phủ các nước đều cho rằng, cần phải có hành động chống lại hành vi bán phá giá, nhằm bảo vệ sản xuất trong nước.

Hiệp định về CBPG của WTO ra đời và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên. Hiệp định này quy định các biện pháp CBPG chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng được 4 điều kiện: Thứ nhất, sản phẩm đang bán phá giá. Thứ hai, có thiệt hại vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe dọa doanh nghiệp nội địa đang sản xuất sản phẩm tương tự sản phẩm bán phá giá, hoặc gây ra sự trì trệ đối với quá trình thành lập một ngành công nghiệp trong nước. Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại vật chất (hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất) do chính hành động bán phá giá đó gây ra. Thứ tư, tác động của bán phá giá phải có tính bao trùm, ảnh hưởng tới cộng đồng rộng lớn.

Theo quy định của WTO, các quốc gia có quyền tự do trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp CBPG đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình, miễn là không mâu thuẫn với các hiệp định và quy định của WTO. Tình trạng này là nguyên nhân chủ yếu để nhiều nước áp dụng luật CBPG như là công cụ thực hiện chính sách bảo hộ thái quá thị trường nội địa.

Nguy cơ từ thị trường Mỹ

Từ năm 2002 đến nay, qua 6 lần xem xét hành chính hằng năm, cùng với nhiều nỗ lực đấu tranh của VASEP và các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa Việt Nam, mức thuế CBPG này đã dần giảm về 0 đối với phần lớn các doanh nghiệp bị đơn Việt Nam.

Tuy nhiên, niềm vui được hưởng thuế suất bằng 0 của các doanh nghiệp Việt Nam chưa được bao lâu, thì ngày 14/3/2013, DOC thông báo quyết định cuối cùng của đợt POR8 đối với cá tra fillet đông lạnh Việt Nam, giai đoạn  1/8/2010 – 31/7/2011. Theo đó, thuế suất đánh vào mặt hàng cá tra fillet đông lạnh của doanh nghiệp Việt Nam tăng cao đột ngột so với kỳ POR7, trái ngược mức thuế sơ bộ rất thấp hoặc bằng 0 được công bố ngày 12/9/2012.

Quyết định này của DOC khiến các doanh nghiệp Việt Nam không khỏi sững sờ, lo lắng. Các cơ quan chức năng cũng như doanh nghiệp Việt Nam khẳng định, sẽ khởi kiện và kiện đến cùng để giành lại công bằng cho cá tra Việt Nam. Tuy nhiên, “được vạ thì má đã sưng” là điều khó tránh khỏi, bởi để vụ kiện đi đến hồi kết, và dù thành công hay thất bại thì doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải tốn không ít thời gian, tiền bạc. Điều này đã được chứng minh trong vụ kiện CBPG cho cá tra lần đầu tiên.

Vì sao bị kiện?

Cá tra là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam, hiện được xuất khẩu sang 142 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó thị trường Mỹ đóng vai trò rất quan trọng. Theo VASEP, năm 2012, giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam đạt 1,74 tỷ USD (tương đương năm 2011); trong đó kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ hơn 358 triệu USD, chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam.

Khi sản phẩm cá tra, basa Việt Nam tăng tốc vào Mỹ với giá hợp lý hơn, đã ảnh hưởng trực tiếp sản phẩm cá da trơn nuôi tại nước này. Thực tế, diện tích nuôi cá da trơn ở Mỹ chỉ trong năm 2012 đã giảm 1/2, từ khoảng 67.000 ha xuống còn hơn 33.000 ha. Những năm trước đây, người nuôi cá da trơn của Mỹ đã nhiều lần tìm cách ngăn cản doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ; trong đó có cả việc ép các cơ quan chức năng Mỹ phải tạo hàng rào kỹ thuật, coi cá tra, basa Việt Nam không phải cá da trơn. Gần đây nhất, các doanh nghiệp Mỹ yêu cầu DOC lựa chọn một nước khác là Indonesia hoặc Philippines làm căn cứ tính giá và thuế, thay thế Bangladesh cho vụ kiện CBPG cá tra, cá basa vào Mỹ trong POR8. Đây thực chất là cách làm không minh bạch, nhằm tìm cớ ngăn cản sự thâm nhập của cá tra Việt Nam vào Mỹ, bảo hộ sản phẩm cá da trơn nội địa đang dần mất ưu thế tại Mỹ.

Trong quá trình điều tra CBPG đối với cá tra Việt Nam, Mỹ thường chọn nước thứ ba thay thế làm cơ sở so sánh các yếu tố chi phí đầu vào. Việc chọn nước thay thế nào có quan hệ rất lớn đến việc xem xét cá tra Việt Nam có bán phá giá hay không. Ở lần POR8 này, Mỹ đột ngột thay đổi từ Bangladesh sang chọn Indonesia (có nền công nghiệp sản xuất, chế biến cá tra khác xa Việt Nam) làm nước thứ ba thay thế, khiến cá tra Việt Nam bị coi là đã bán phá giá và phải chấp nhận mức thuế “trừng phạt” tăng 25 – 45 lần so với lần POR7, là điều hết sức vô lý. Tuy nhiên, để làm rõ được vấn đề, Việt Nam phải chấp nhận đứng đơn kiện lên Tòa án Thương mại Quốc tế. Thời gian theo đuổi vụ kiện chắc chắn lại kéo dài và đó là thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt, nếu không muốn mất thị trường quan trọng này.

Không tránh được thì đương đầu

Khủng hoảng kinh tế tạo cơ hội cho các sản phẩm giá thấp như thủy sản, dệt may, da giày, gạo… mở rộng thị trường; đồng thời cũng làm tăng xu hướng bảo hộ của các nước phát triển, trong đó có CBPG. Trên thực tế, Việt Nam chưa phải mục tiêu chính trong các vụ kiện bán phá giá lớn trên thế giới. Tuy nhiên, cùng với năng lực xuất khẩu ngày càng tăng và lợi thế cạnh tranh chủ yếu về giá, đồng nghĩa việc Việt Nam sẽ phải đối mặt ngày càng nhiều đối với các vụ kiện bán phá giá. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam muốn kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu thì không có cách nào khác là phải chủ động phòng tránh và đối phó, thông qua tìm hiểu bản chất, thủ tục tiến hành, sử dụng các biện pháp ứng phó thích hợp khi có tình huống kiện tụng xảy ra.

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu – Ảnh: Trần Huy

Bài học đầu tiên nhìn từ vụ kiện CBPG đối với cá tra Việt Nam là, khi ưu thế cạnh tranh của các nhà sản xuất nội địa giảm sút, thị phần của họ bị suy giảm, họ có thể sử dụng mọi biện pháp có thể để ngăn cản hàng nhập khẩu. CBPG chỉ là một trong các biện pháp mà người sản xuất nội địa có thể sử dụng. Do đó, các nhà sản xuất nội địa Mỹ có nhiều cơ hội ngăn cản hàng ngoại nhập. Doanh nghiệp Việt Nam vì thế phải có chiến lược đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu, nhằm phân tán rủi ro, bảo đảm hoạt động sản xuất, “không nên bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Không nên tập trung xuất khẩu một vài mặt hàng với khối lượng lớn vào một nước, vì đây có thể là cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá.

Bên cạnh đó, để đối phó các vụ kiện CBPG thì sự minh bạch trong các tài liệu ghi chép, sổ sách kế toán là điều cần được đặc biệt chú ý. Qua hai vụ kiện tôm và cá tra, chúng ta rút ra kinh nghiệm về chứng từ, số liệu kế toán của nhiều doanh nghiệp chưa rõ ràng, minh bạch, làm cho cơ quan điều tra không chấp nhận những chi phí đó, dẫn đến khó khăn và bất lợi trong việc điều tra biên độ phá giá của doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Duy Khiên, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Mỹ (Bộ Công thương) từng chỉ ra nguyên nhân khiến doanh nghiệp nước ta thua kiện CBPG là do doanh nghiệp che giấu thông tin, tài liệu kế toán, lưu trữ số liệu không cụ thể rõ ràng. “Để chủ động đối phó các vụ kiện, trước hết doanh nghiệp cần kiểm tra tài liệu kế toán, số liệu lưu trữ rõ ràng, chính xác. Những thông tin về giá bán, số lượng bán, ngày tháng xuất bán, chi phí tàu biển, điều chỉnh giá là phần phải có số liệu rõ ràng nhất. Thông tin về các chi phí trong sản xuất, chi phí khác phải tách bạch…” – ông Khiên khuyến nghị.

Mỹ Giảm 89% Thuế Chống Bán Phá Giá Cá Tra, Basa Việt Nam Trong Đợt Por 15

Hàng hóa Nguyên liệu

Mỹ áp dụng mức thuế chống bán phá giá 0,15 USD/kg với các doanh nghiệp hợp tác trả lời bản câu hỏi, tức giảm 89% so với đợt rà soát trước. Các doanh nghiệp không hợp tác nhận mức thuế 2,39 USD/kg. Một số doanh nghiệp xuất khẩu khác như Vĩnh Hoàn, Thủy sản Biển Đông… vẫn tiếp tục được hưởng mức thuế 0%.

Một số doanh nghiệp hợp tác với DOC trong đợt rà soát được giảm 89% thuế. Ảnh: STT

Bộ Thương mại Mỹ (DOC) vừa thông báo kết quả chính thức của đợt rà soát thuế chống bán phá giá lần thứ 15 (POR15) đối với sản phẩm cá tra – basa của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ giai đoạn từ 1/8/2017 đến 31/7/2018.

Mức thuế áp dụng cho một số doanh nghiệp đã tham gia trả lời bản câu hỏi và hợp tác với DOC là 0,15 USD/kg (tương ứng khoảng 3,8% giá xuất khẩu). Các doanh nghiệp không hợp tác nhận mức thuế 2,39 USD/kg. Như vậy, mức thuế dành cho các doanh nghiệp hợp tác đã giảm 89% so với đợt trước (POR14). Mức thuế cho các doanh nghiệp không hợp tác vẫn giữ nguyên.

Đây là thông tin tích cực đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 đang tác động tiêu cực đến ngành nuôi cá trong nước. Ngoài ra, hầu hết các doanh nghiệp lớn xuất khẩu cá tra của Việt Nam như Vĩnh Hoàn, Công ty TNHH Thủy sản Biển Đông… vẫn tiếp tục được hưởng mức thuế 0%.

Theo VASEP, do tác động xấu bởi dịch Covid-19, xuất khẩu cá tra trong quý I giảm mạnh đến 29,3% so với cùng kỳ năm 2019, chỉ đạt 334 triệu USD.

Đối với thị trường Mỹ, trong tháng 3 giá trị xuất khẩu cá tra đạt 23 triệu USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2019. Theo VASEP, mặc dù, giá trị xuất khẩu cá tra trong 3 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm ngoái (61,7 triệu USD, giảm 13,2%) nhưng thị trường đang có những phản ứng tích cực. Do đó, kỳ vọng trong quý II, giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường Mỹ vượt lên, đạt mức tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm 2019.

Việt Nam Đủ Điều Kiện Xuất Khẩu Cá Tra, Basa Sang Mỹ – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam

Việt Nam được phép xuất khẩu cá da trơn sang thị trường Mỹ

Thông báo của FSIS sẽ được công bố trên Công báo liên bang chính thức vào ngày 19/9 với thời gian nhận phản hồi trong vòng 30 ngày.

Sau khi duyệt hồ sơ kế hoạch của Việt Nam, FSIS đã lên kế hoạch kiểm tra thực địa vào tháng 5/2018. Kiểm tra thực địa đã xác nhận rằng kế hoạch mà Việt Nam đưa ra luôn bám sát thực tế và FSIS chỉ phát hiện một điểm khác biệt rất nhỏ so với hồ sơ gửi đi nhưng lỗi này không ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm. Một trong số những lỗi này là vi phạm HACCP nhưng không đáng kể.

Khi những lỗi trên được khắc phục, FSIS đã quyết định Việt Nam và các nước khác có hệ thống giám sát cá da trơn tương đương với hệ thống của Mỹ. Do đó, Việt Nam sẽ tiếp tục xuất khẩu cá tra, basa sang thị trường Mỹ mà không vướng bất cứ rào cản phi thuế quan nào. FSIS cho biết, kết quả kiểm tra thực địa hệ thống giám sát cá da trơn của Việt Nam không phát hiện bất cứ lỗi nào đe dọa trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng.

FSIS đã hoàn tất việc rà soát hồ sơ, đánh giá thực địa và xác minh quá trình khắc phục lỗi và toàn bộ các vấn đề còn tồn tại cũng đã được giải quyết. FSIS kết luận rằng, hệ thống giám sát cá da trơn của Việt Nam tương đương với hệ thống của Mỹ. Theo số liệu của USDA, thị phần xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam luôn ổn định trong 5 năm qua tại Mỹ (khoảng 90 – 92%). Trong khoảng thời gian này, tỷ lệ tiêu thụ cá da trơn tại Mỹ (nội địa và nhập khẩu) từ Việt Nam dao động 45,5 – 46,8%, với mức trung bình 5 năm khoảng 45,7%.

FSIS cho biết, luật dự kiến có thể mang lại lợi ích cho ngành công nghiệp cá da trơn bằng cách ổn định thị trường và tiếp tục mở cơ hội giao thương giữa Mỹ và Việt Nam. Người tiêu dùng tại Mỹ có nhiều sự lựa chọn khi mua cá da trơn, đặc biệt là họ cá tra, basa – loài cá bản địa của Việt Nam, Trung Quốc và một số quốc gia châu Á. Cá tra, basa có hương vị, màu sắc và thớ thịt khác biệt hơn các loài cá da trơn tại Mỹ. Giao dịch cá tra, basa giữa Mỹ và Việt Nam được duy trì sẽ mang lại sự lựa chọn phong phú cho người tiêu dùng tại Mỹ.

Trong khoảng thời gian nhận phản hồi 30 ngày, FSIS sẽ cân nhắc các ý kiến đóng góp rồi mới đưa ra quy định cuối cùng. Mặc dù Chương trình giám sát cá da trơn của USDA sẽ khiến ngành cá da trơn nội địa và hãng nhập khẩu phải gánh thêm chi phí, nhưng dường như giờ đây mọi tham vọng lật đổ cá tra, basa nhập khẩu từ phía các nhà sản xuất cá da trơn nội địa tại Mỹ đã bị sụp đổ hoàn toàn.

Thuế Bán Phá Giá Cá Tra Việt Nam Tại Mỹ: Sự Phi Lý Khi Lựa Chọn Nước Tương Đồng Indonesia – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam

Ngày 29/3/2016, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố các kết quả cuối cùng đợt rà soát hành chính lần thứ 11 của lệnh chống bán phá (CBPG) với mặt hàng fillet cá tra/basa đông lạnh từ Việt Nam. Hai nhà xuất khẩu lớn nhất, HVG và Tafishco đã nhận được mức thuế suất tương ứng 0,41 USD/kg và 0,97 USD/kg, trong khi mức thuế suất bình quân là 0,69 USD/kg đã được đánh vào các công ty hưởng mức thuế suất riêng biệt (nghĩa là các công ty có thể chứng minh sự độc lập từ Chính phủ Việt Nam). Cuối cùng, một mức thuế suất trừng phạt là 2,39 USD/kg từ các giai đoạn trước đã được duy trì đối với tất cả các nhà xuất khẩu Việt Nam khác. Rõ ràng, DOC đã quá vô lý và bất chấp tất cả lựa chọn một nước không tương đồng kinh tế với Việt Nam để tính toán mức thuế CBPG nhập khẩu fillet cá tra/basa của Việt Nam vào thị trường Mỹ.

Sự phi lý

Trong tiến trình vụ kiện CBPG của Mỹ, cáo buộc đối với các nhà xuất khẩu là họ đã tham gia bán hàng vào thị trường Mỹ với mức giá thấp hơn giá trị thị trường hợp lý (giá trị thông thường) của hàng hóa, mà việc bán hàng này đã gây ra sự tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất nội địa của Mỹ. Giá trị thông thường điển hình là giá mà nhà xuất khẩu bán hàng hóa tại thị trường nội địa của nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, một ngoại lệ được thực hiện đối với các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường (“NME”) như Việt Nam và Trung Quốc. Căn cứ vào việc đối xử Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, DOC đã từ chối dữ liệu chi phí và giá cả được báo cáo từ Việt Nam. Thay vào đó, theo pháp luật Mỹ, DOC xác định giá trị thông thường của fillet cá tra/basa bằng việc áp dụng phương pháp xây dựng chi phí, trong đó định giá tất cả các yếu tố đầu vào riêng lẻ được sử dụng để sản xuất fillet cá (cá nguyên con, con giống, thức ăn, hóa chất, chi phí nhân công, điện,…) dựa trên các mức giá đang phổ biến tại một quốc gia giá trị thay thế. Do đó, rõ ràng là việc lựa chọn một quốc gia giá trị thay thế phù hợp là một quyết định quan trọng nhất, có ảnh hưởng lớn đối với kết quả cuối cùng trong một vụ kiện CBPG.

Theo pháp luật Mỹ, DCO được ủy thác lựa chọn quốc gia giá trị thay thể đối với Việt Nam căn cứ vào hai tiêu chí: Một là, quốc gia đó nên “tương đồng về mặt kinh tế” đối với Việt Nam về mặt tổng thu nhập quốc dân tính theo đầu người (“GNI”); Hai là quốc gia đó nên là một “nhà sản xuất đáng kể” hàng hóa có thể so sánh được. Trong đợt rà soát lần thứ 11, DOC đã lựa chọn Indonesia làm quốc gia giá trị thay thế so với Việt Nam, và vì vậy đã xác định giá trị thông thường của fillet cá tra/basa bằng việc định giá tất cả các yếu tố sản xuất đầu vào riêng lẻ căn cứ trên giá tại thị trường Indonesia và sau đó tập hợp chúng lại để có được giá trị thông thường của fillet cá xuất khẩu. Như được giải thích bên dưới, việc DOC ưu tiên lựa chọn Indonesia làm quốc gia giá trị thay thế là trái pháp luật và là lý do quan trọng nhất dẫn tới các mức thuế CBPG rất cao đối với fillet cá Việt Nam.

Cá tra fillet Việt Nam vẫn “long đong” tại thị trường Mỹ – Ảnh: LHV

Tại sao?

Không có tranh cãi nào về việc Indonesia không tương đồng kinh tế với Việt Nam. Tại sao lại như vậy? Vào lúc bắt đầu tiến trình của mỗi đợt rà soát, Văn phòng Chính sách của Bộ Thương mại (“OP”) ban hành một danh sách các quốc gia được cân nhắc là tương đồng về mặt kinh tế với Việt Nam, căn cứ trên tổng thu nhập quốc dân theo đầu người (GNI) của các quốc gia riêng lẻ. Danh sách của OP ban hành vào thời điểm bắt đầu đợt rà soát hành chính thứ 11 đã không bao gồm Indonesia do GNI của Indonesia đã bỏ xa GNI của Việt Nam. Do đó, theo luật và tiền lệ đã được xác lập, DOC đã được yêu cầu lựa chọn một quốc gia giá trị thay thế từ danh sách các quốc gia tương đồng về mặt kinh tế của OP, bao gồm Bangladesh, Philippines và Ấn Độ. Tất cả các quốc gia này không chỉ tương đồng về mặt kinh tế với Việt Nam mà còn có các nhà sản xuất fillet cá tra/basa đáng kể. Tất cả ba quốc gia này, đặc biệt Bangladesh, có đủ dữ liệu giá chất lượng cho phép DOC xác định giá trị thông thường của fillet cá chính xác.

Sự kiện này nêu lên một câu hỏi nghiêm túc là tại sao Bộ Thương mại Mỹ đành phải lựa chọn một quốc gia không tương đồng về mặt kinh tế, Indonesia, làm quốc gia giá trị thay thế. Các giải thích của DOC về vấn đề này còn lưỡng lự và không có sức thuyết phục, mâu thuẫn với thực tiễn và tiền lệ tòa án.

Lịch sử tiến trình CBPG đối với fillet cá Việt Nam thể hiện hơn 10 năm qua, cho đến đợt rà soát hành chính lần thứ 8, căn cứ theo việc lựa chọn Bangladesh làm quốc gia giá trị thay thế nhất quán, DOC đã xác định giá trị thông thường của fillet cá tra/basa Việt Nam căn cứ trên dữ liệu giá của Bangladesh. Cần phải được nhấn mạnh rằng trong suốt giai đoạn này, Bangladesh và Indonesia đều nằm trong danh sách các quốc gia tương đồng về mặt kinh tế của OP và lúc này Bangladesh đã được ưu tiên lựa chọn một cách kiên định so với Indonesia. Trong suốt giai đoạn này, dù các mức thuế CBPG đã được đánh vào các đợt xuất khẩu của Việt Nam nhưng ở một mức độ được cho là hợp lý và không mang tính trừng phạt. Đó là các mức thuế suất CBPG được tính toán hết sức công bằng và chính xác để đảm bảo sự cân bằng giữa việc bảo vệ nền công nghiệp cá da trơn Mỹ và việc cho phép kinh doanh cá rộng mở, công bằng từ Việt Nam. Những người thụ hưởng cuối cùng là các khách hàng Mỹ, những người đã có thể mua fillet cá tra/basa với các mức giá phải chăng, thay vì phải thanh toán các mức giá độc quyền và cao quá đáng.           Việc nhập khẩu từ Việt Nam cũng đã duy trì hàng ngàn công việc trong chuỗi cung ứng, từ Việt Nam đến thị trường Mỹ. Chỉ có một bên bị thiệt hại là nền kỹ nghệ nội địa Mỹ.

Do thất bại về cơ bản trong nỗ lực khống chế việc nhập khẩu từ Việt Nam ngay cả sau nhiều đợt rà soát chống bán phá giá bởi DOC, các chủ trại nuôi nội địa của Mỹ tại Mississippi, Arkansas và Louisiana và Hiệp hội các chủ trại cá da trơn Mỹ (CFA) đã yêu cầu thay đổi các quy tắc của trò chơi trong một đêm. Do thua tất cả các trận đánh trước đây theo luật và theo các sự kiện thực tế, trong đợt rà soát hành chính lần thứ 8, CFA đã gây sức ép lớn đối với DOC, khiến DOC phải thay đổi đội ngũ điều tra mà đã giải quyết vụ kiện này hết sức mẫn cán trong suốt thời gian trước đó. Tuy nhiên, CFA đã vẫn phải đối mặt với chướng ngại vật chính trong mục tiêu của mình để ép buộc một sự thay đổi mang tính phương pháp luận nhằm đạt mức thuế suất CBPG rất cao bởi vì Indonesia thì đã được loại bỏ ngay tức khắc mà không cần phải giải thích khỏi danh sách các quốc gia tương đồng về mặt kinh tế của OP trong đợt rà soát hành chính lần thứ 8. Tuy nhiên, CFA đã kiên cường vận động hành lang DOC để chuyển đổi quốc gia giá trị thay thế từ Bangladesh, một quốc gia tương đồng về mặt kinh tế, sang Indonesia, một quốc gia không tương đồng về mặt kinh tế.

Các nhà xuất khẩu Việt Nam và VASEP đã bị sốc khi DOC lựa chọn Indonesia thay vì Bangladeesh vào tháng 3/2016 làm quốc gia giá trị thay thế. Việc chuyển đổi quốc gia giá trị thay thế đã báo hiệu một kỷ nguyên của các mức thuế CBPG cao, gây tranh cãi và mang tính trừng phạt một cách bất hợp lý đối với các nhà xuất khẩu fillet cá tra/basa Việt Nam.

DOC nói gì?

Sự lựa chọn Indonesia của DOC rõ ràng là bất hợp lý vì nhiều lý do. Trước tiên, thực sự không thể giải thích được việc DOC đột ngột lựa chọn Indonesia, chỉ sau khi quốc gia này được loại bỏ một cách rõ ràng bởi chính DOC do không đáp ứng tiêu chí tính tương đồng về mặt kinh tế. Thứ hai, ngay cả khi bỏ qua vấn đề thiếu tính tương đồng về mặt kinh tế, lập luận đề xuất của DOC khi lựa chọn Indonesia thay vì sự lựa chọn Bangladesh đã được “ổn định” – rằng chỉ riêng Indonesia có đủ dữ liệu giá đáng tin cậy đối với cá nguyên con trong khi dữ liệu giá của Bangladesh là không đáng tin cậy – là không thuyết phục và mâu thuẫn với hàng đống chứng cứ được nộp cho DOC.

Dữ liệu Thống kê Thủy sản của Indonesia (IAS) được sử dụng để định giá cá nguyên con, đã bị chỉ trích bởi Tổng Cục trưởng khi đó của IAS, ông Ketuk Sugama. Trong một bản tuyên thệ đã ký mà đã được nộp cho DOC, ông Sugama giải thích rằng dữ liệu IAS đã phản ánh dữ liệu giá của nhiều loài cá khác hẳn nhau được nuôi trồng nhiều phương pháp thủy sản hơn là bằng ao (như ở Việt Nam), và đã bị bóp méo bởi các giá bán lẻ đối với cá đã chế biến. Trái lại, VASEP đã nộp nhiều công văn từ các viên chức chính phủ Bangladesh, chứng minh chất lượng cao của dữ liệu giá bán buôn của Cơ quan Tiếp thị Nông nghiệp Bangladesh (DAM) đối với các loài pangasius hypophthalmus được nuôi trong ao (mà tương đương với cá tra/basa được nuôi trong ao).

Tuy vậy, DOC đã từ chối một cách bất hợp lý dữ liệu DAM bằng việc chỉ đơn giản dựa vào một vài bản tuyên thệ tự thực hiện được cung cấp bởi các nhà tư vấn có trả tiền của CFA mà đã cáo buộc một cách sai lầm rằng dữ liệu DAM có bao gồm giá bán cá chết, trong khi Bộ Thương mại chấp nhận một cách mù quáng dữ liệu của IAS, hoàn toàn lờ đi bản tuyên thệ có thẩm quyền của ông Sugama. VASEP đã phản đối quyết định này ra trước Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ và kết quả cuối cùng vẫn đang được chờ đợi.

Trong khi chờ đợi, với việc chuyển sang thực tiễn áp dụng bất hợp pháp của mình để lựa chọn một quốc gia không tương đồng về mặt kinh tế, Indonesia, là quốc gia giá trị thay thế chính đối với Việt Nam, DOC đã tiếp tục đánh thuế CBPG ở mức độ cao mang tính ngăn cấm trong các đợt rà soát hàng năm lần thứ 9, thứ 10, và 11. VASEP đã nộp kháng cáo tại tòa phản đối các quyết định tiếp theo của DOC.

Lối thoát?

Gần đây, có một tin tốt cho các nhà xuất khẩu Việt Nam đang khó khăn. Vào ngày 30/3/2016, Tòa án Thương mại Quốc tế đã tuyên án thuận lợi cho VASEP về vấn đề quốc gia giá trị thay thế (duy trì sự lựa chọn Bangladesh của DOC) và sự đáng tin cậy toàn diện của dữ liệu DAM của Bangladesh, trong kháng cáo được nộp bởi CFA phản đối kết quả cuối cùng của đợt rà soát hành chính lần thứ 7. Tuy nhiên, vẫn còn chưa rõ mức độ quyết định này sẽ giúp đỡ VASEP trong các vụ tranh tụng trong tương lai như thế nào.

Thậm chí trong khi các nhà xuất khẩu Việt Nam đã và đang vật lộn với sự thất thường của các chu trình rà soát hàng năm của tiến trình CBPG, CFA đã tiếp tục tạo ra thêm các hàng rào phi thuế quan chống lại việc xuất khẩu fillet cá tra/basa từ Việt Nam. Căn cứ theo các nỗ lực vận động hành lang của CFA, bắt đầu từ ngày 1/3/2016, tất cả các nhà xuất khẩu cá tra/basa phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của Cơ quan Kiểm tra và An toàn thực phẩm (FSIS) trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA). Các tiêu chuẩn tương đồng và chế độ kiểm tra/chứng nhận toàn quốc của USDA-FSIS rất phức tạp và sẽ là một thử thách đối với Việt Nam. May mắn thay, một giai đoạn chuyển tiếp 18 tháng can thiệp vào trước khi các tiêu chuẩn này có hiệu lực đầy đủ.

Do đó, một điều lưu ý quan trọng đối với VASEP và Chính phủ Việt Nam là tiếp tục đấu tranh với vấn đề lựa chọn quốc gia giá trị thay thế với Mỹ. Chính quyền Mỹ nên được thông báo rằng thực tiễn hoạt động của DOC về vấn đề này là mâu thuẫn nội tại. Trong một tiến trình CBPG đang diễn ra song song đối với một sản phẩm thủy sản khác – tôm đông lạnh – từ Việt Nam, DOC tiếp tục lựa chọn Bangladesh làm quốc gia giá trị thay thế. Sự kiện này đề xuất rằng việc lựa chọn Indonesia làm quốc gia giá trị thay thế không dựa trên luật hay dữ kiện thực tế; thay vào đó, nó là kết quả của sự lựa chọn định hướng kết quả, được thiết kế chỉ nhằm để tăng biên độ CBPG. Chính quyền Việt Nam cũng nên cân nhắc sử dụng ảnh hưởng từ các quan hệ mới và các động thái xung quanh Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) chống lại thực tiễn hoạt động bất hợp pháp và bất công của Bộ Thương mại trong vụ kiện CBPG fillet cá Việt Nam.