Top 11 # Cá Walleye Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Fcbarcelonavn.com

Cá Walleye Và Saugeye Phát Triển Thành Công Trong Nhà

Walleye và saugeye bơi trong bể tại Đại học Wisconsin Stevens Point- cơ sở trưng bày nuôi thủy sản miền Bắc (UWSP-NADF).

Lưu ý: Bài viết này được tóm tắt và chuyển thể từ một ấn phẩm ban đầu trong vấn đề nuôi trồng thủy sản Bắc Mỹ tháng 9 / tháng 10 năm 2015. Thông tin thêm về công trình nghiên cứu này có sẵn tại aquaculture.uwsp.

Walleye và sauger

Cá Walleye (Sander vitreus, trước đây được biết đến như Stizostedion vitreum) là cá bản địa perciform nước ngọt (họ cá vược) của miền Bắc Hoa Kỳ và Canada, họ gần với pikeperch châu Âu (aka Zander).

Chúng được phân bố rộng và phạm vi địa lý lịch sử của chúng bao gồm miền đông Hoa Kỳ về phía tây của dãy núi Appalachian, và miền Nam, miền Trung và miền Tây Hoa Kỳ hướng vào miền nam Canada.

Nuôi thủy sản tiềm năng

Đã có rất nhiều nghiên cứu phát triển nuôi thủy sản thương mại cá Walleye, cũng như giống lai của walleye và sauger. Cá Walleye lai, được gọi là saugeye, là một kết hợp tự nhiên giữa một Walleye nữ và một sauger nam và cũng có thể được sản xuất tại một trại giống.

Saugeyes có nhiều đặc điểm phù hợp để sản xuất nuôi trồng thủy sản thâm canh, trong đó có khả năng phát triển các loài ở mật độ thương mại thông qua toàn bộ vòng đời của chúng, từ trứng đến cá con, cá giống đến cá có kích thước thị trường sử dụng thức ăn thương mại có sẵn, không có thức ăn sống cần thiết.

Cá saugeye có tỷ lệ tăng trưởng lên đến 2,0 gam /ngày, cao hơn 3-4 lần so với cá rô vàng. Chuyển đổi thức ăn là 1,2-1,4: 1 trong suốt quá trình nuôi vỗ và có nhiều thị trường rộng lớn ở miền Trung Tây và giá cả thị trường cao đối với cá philê ($ 10 đến $ 18 mỗi pound).

Ngoài ra, có một số kích cỡ thị trường tiềm năng, từ cá giống nhỏ có thể được sản xuất dưới sáu tháng đến cá có kích thước lớn hơn có thể mất 1-3 năm để sản xuất phụ thuộc vào kích cỡ thị trường mục tiêu. Walleye và Walleye lai có thể dễ dàng nuôi trong hệ thống nuôi thủy sản tuần hoàn và hiện đang cho thấy tiềm năng trong các hệ thống aquaponics.

Các phương pháp hệ thống trong nhà bởi UWSP-NADF

Walleye được cả hai khu vực công và tư nhân nuôi trong nhiều năm – chủ yếu trong hệ thống ao ngoài trời rộng – công nghệ để nuôi ấu trùng tại hệ thống bể trong nhà cũng được phát triển.

Các cuộc điều tra gần đây ở một số cơ quan đã nghiên cứu sự tiến triển sinh sản theo mùa, sản xuất trong nhà thâm canh cá con và lai giống như cách tiềm năng để cải thiện nuôi thủy sản cá Walleye, và bây giờ các công nghệ mới đang được sử dụng để nuôi cá có kích thước lớn hơn trong thời gian ngắn hơn.

Bể nuôi Walleye tại UWSP-NADF.

Tại một trong những chương trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu tại Đại học Wisconsin Stevens Point- cơ sở trưng bày nuôi thủy sản miền Bắc (UWSP-NADF) – cùng với các cộng sự và đối tác khác -đã phát triển các phương pháp từ năm 2008 để nuôi hiệu quả Walleye và Walleye lai (saugeye) sử dụng hệ thống ấu trùng trong nhà cho việc nuôi ban đầu và hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn nhiệt (RAS) để nuôi thương phẩm.

Sản xuất walleye trong nhà cho phép trại giống hoặc trại cá kiểm soát các thông số chất lượng nước quan trọng khác nhau như nhiệt độ nước, oxy hòa tan và những đặc tính khác, nhằm mang lại điều kiện thích hợp để phát triển cá một cách nhanh chóng. Mục tiêu nghiên cứu quan trọng khác là loại bỏ chi phí thức ăn cá tuế “nhỏ” đắt tiền cho cá giống Walleye con, trong hệ thống sản xuất ao ngoài trời.

Chi phí thức ăn nhỏ này có thể lên đến 50 phần trăm toàn bộ chi phí thức ăn cá tuế cho sự phát triển walleyes lớn hơn theo mong muốn của nhiều cơ quan tài nguyên thiên nhiên đối với các chương trình nuôi của họ. Những công nghệ mới trong nhà có tiềm năng thương mại với việc sản xuất cá walleye và cá lai sử dụng thức ăn công nghiệp cho cá giống và cá thịt, đặc biệt là ở trung tây Hoa Kỳ.

Cá giống, nuôi ấu trùng và nuôi vỗ

UWSP-NADF là một trong số ít các cơ sở Mỹ nắm giữ cá giống Walleye và sauger nuôi thâm canh, cho ăn hiệu quả. Những con cá này được duy trì trong cơ sở RAS nước ấm (18-24 độ C) và được sinh ra thành công dù qua mùa nhờ sử dụng chiếu sáng tiêu chuẩn và phương pháp thao tác nhiệt độ.

Các nhà khoa học tại UWSP-NADF đã nuôi thâm canh Walleye và sauger đến khi trưởng thành, và sản xuất cá giống được sinh ra thành công trong mùa sinh sản cũng như ngoài mùa từ tháng hai đến tháng sáu (mùa đẻ trứng của walleye ở Wisconsin là vào tháng tư).

Cả trứng của Walleye và Walleye lai được ủ thành công, nở và ấu trùng được cho ăn hiệu quả cũng như phát triển đến kích thước thị trường nhờ sử dụng phương tiện công nghệ RAS. Chế độ ăn thương mại được sử dụng, mà không cần bất kỳ tôm biển, động vật phù du hoặc thức ăn sống tự nhiên khác.

Nhờ sử dụng đúng cách thiết lập và vận hành hệ thống bể mà tỷ lệ sống lên đến 60 phần trăm trong giai đoạn nuôi ấu trùng 30 ngày đầu tiên. Thông thường, UWSP-NADF chỉ thấy tỷ lệ sống từ 40 đến 50 phần trăm trong suốt thời gian này.

Bởi vì ăn thịt đồng loại là hành vi điển hình của những con cá này nên cần có hoạt động quản lý như phân loại kích thước trong mỗi bể cá để hạn chế vấn đề này. Giống như trong các loài ăn thịt khác, tỷ lệ sống thường tăng đáng kể khi cá phát triển và đạt kích thước lớn hơn, và tỷ lệ sống trong giai đoạn cuối nuôi vỗ có thể đạt tới 95 phần trăm.

Một phần của dự án này là phát triển cũng như đẩy mạnh thương mại hóa các công nghệ nuôi trồng thủy sản sáng tạo. Mục đích của các hoạt động này nhằm thể hiện việc tăng sản lượng cá con Walleye tiên tiến để thả trong các ngư trường thể thao giải trí, và cải thiện hơn nữa hệ thống tích hợp cho việc sản xuất Walleye lai từ cá con đến kích cỡ thị trường trong mùa sinh sản.

Ngoài ra, các hoạt động chuyển giao công nghệ bao gồm hội thảo, hướng dẫn, video, cẩm nang nuôi walleye thâm canh và giống lai. UWSP-NADF đã làm việc trực tiếp với một số trang trại nuôi trồng thủy sản Wisconsin sản xuất Walleye và Walleye lai để hỗ trợ họ sử dụng những công nghệ mới này.

Triển vọng

Nghiên cứu UWSP-NADF đã chỉ ra rằng Walleye và Walleye lai có thể được nuôi thành công trong nhà nhờ sử dụng kỹ thuật đẻ trứng, ấp trứng và nuôi tiên tiến. Hệ thống tái chế UWSP-NADF đã sản xuất Walleye lai có kích thước thị trường (lên đến 1 kg) trong mùa sinh trưởng từ cá giống trung bình 0,95 gram lúc thả giống, mật độ bể trung bình 34 kg /m³.

Các số liệu cũng cho thấy rằng tỷ lệ tăng trưởng của Walleye lai cao hơn Walleye thuần chủng. Sản lượng chế biến philê lớn hơn 50 phần trăm và nghiên cứu thị trường ban đầu thể hiện tiềm năng nuôi trồng thủy sản tốt và nhu cầu cao đối với Walleye lai như cá thịt.

Chúng tôi hy vọng rằng những nghiên cứu và nỗ lực nghiên cứu khác sẽ chứng minh thành công những cải thiện trong nghiên cứu kinh tế sản xuất walleye và Walleye lai cũng như tiếp tục hỗ trợ sản xuất nuôi trồng thủy sản thương mại của họ.

Walleye là một loài cá nước ngọt thuộc họ Cá vược. Đây là loài bản địa của Canada và Bắc Hoa Kỳ. Walleyes dài khoảng 80 cm, và nặng tới 9 kg. Kích thước kỷ lục được ghi nhận là dài 107 cm và cân nặng 11,3 kg (Wikipedia)

Sauger (Sander canadensis) cơ thể thon dài và miệng lớn kéo dài về phía mắt. Màu sắc của nó thay đổi từ màu xám đến nâu và nhẹ trên hai mặt của nó, bụng màu trắng, hai vây lưng của nó được phát hiện.

Cá Sauger được tìm thấy trong môi trường sống tương tự như Walleye, chúng thích ẩn mình trong cỏ dại, đá và gỗ. (Wikipedia)

Nguồn: Advocate, 2814/03/2016

Biên dịch: NGỌC THƠ

Biên soạn: 2LUA.VN

Cá Cảnh Đẹp, Cá Betta, Cá Xiêm, Cá Đá

Cá Betta hay còn gọi là Cá Xiêm là một loài Cá Đá, những con cá trống betta gặp nhau là sẽ đánh nhau như là bản chất di truyền của chúng rồi, cá betta ngày nay được lai tạo ra rất nhiều hình dạng đuôi và màu sắc đẹp có thể nuôi làm cảnh rất bắt mắt không chỉ đơn thuần là để đá cá như cá xiêm hồi xưa. Thông tin chung – General information

Tên khoa học: Betta spp.

Tên Tiếng Anh: Betta

Tên Tiếng Việt: Xiêm; Đá

Nguồn cá: Sản xuất nội địa

Chi tiết phân loại:

Bộ: Perciformes (bộ cá vược)

Họ: Osphronemidae (họ cá tai tượng)

Thuộc loài: Nguồn gốc cá xiêm thuộc loài Betta splendens Regan, 1910, trải qua hàng trăm năm chọn lọc và lai tạo, hiện rất hiếm và khó xác định loài cá xiêm thuần chủng trên thị trường. Các loài có thể lai tạo hay tạp giao bao gồm: B. smaragdina Ladiges, 1972; B. imbellis Ladiges, 1975; B. stiktos Tan & Ng, 2005; B. taeniata Regan, 1910; B. pugnax (Cantor, 1849); B. coccina Vierke, 1979 …

Tên tiếng Việt khác: Lia thia; Thia xiêm; Chọi; Phướn

Tên tiếng Anh khác: Siamese fighting fish; Fighting fish

Nguồn gốc: Nguồn cá từ khai thác tự nhiên (lia thia đồng) và nhập nội (lia thia xiêm) cách đây hơn 100 năm theo chân các thương lái người Hoa (Đoàn Khắc Độ, 2007). Cá đã sản xuất giống phổ biến trong nước từ thập niên 40 – 50

Đặc điểm sinh học – Biology

Phân bố: Một số nước Đông Nam Á …

Chiều dài cá (cm): 5 – 7,5

Nhiệt độ nước (C): 24 – 30

Độ cứng nước (dH): 5 – 20

Độ pH: 6,0 – 8,0

Tính ăn: Ăn tạp

Hình thức sinh sản: Đẻ trứng

Chi tiết đặc điểm sinh học:

Phân bố: Đông Nam Á: Thái Lan, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Brunei, Việt Nam …

Tầng nước ở: Mọi tầng nước

Sinh sản: Cá dễ sinh sản, đẻ trứng tổ bọt. Cá đực chăm sóc tổ trứng và cá con, cần tách cá cái ra riêng để tránh cá mẹ ăn trứng. Trứng nở sau 24 – 48 giờ, cá bột tiêu hết noãn hoàng sau 2 – 3 ngày. Cá bột có cỡ miệng nhỏ thích hợp ăn luân trùng, bo bo …

Kỹ thuật nuôi – Culture technology

Thể tích bể nuôi (L): 50 (L)

Hình thức nuôi: Ghép

Nuôi trong hồ rong: Có

Yêu cầu ánh sáng: Vừa

Yêu cầu lọc nước: Ít

Yêu cầu sục khí: Ít

Loại thức ăn: Phiêu sinh động vật, cung quăng, trùng chỉ, ấu trùng côn trùng ….

Tình trạng nhiễm bệnh: Chi tiết kỹ thuật nuôi:

Chiều dài bể: 30 – 40 cm

Thiết kế bể: Cá chịu được môi trường sống chật hẹp và không cần sục khí nhờ cá có cơ quan hô hấp phụ. Cá đực rất hiếu chiến nên cần nuôi riêng, hoặc nuôi một cá đực với nhiều cá cái. Mặc dù nhiều cửa hàng thường giữ cá đực trong các hũ keo hay lọ thủy tinh, nên chọn bể nuôi có thể tích nước tối thiểu 12 lít để có môi trường nuôi ổn định. Bể có nắp đậy, nước tĩnh, ánh sáng yếu với một ít cây thủy sinh và thực vật nổi.

Chăm sóc: Cá khỏe, dễ nuôi, thích hợp cho người mới nuôi chơi cá cảnh.

Thức ăn: Cá ăn tạp thiên về động vật, thức ăn là phiêu sinh động vật, cung quăng, trùng chỉ, ấu trùng côn trùng ….

To, Cá Lớn, Cá Chép, Cá Trắm ,Cá Rô Phi Đánh Con Gì?

Câu cá là niềm vui sở thích của nhiều người , đôi khi trong giấc mơ bạn thấy mình ám chỉ điều gì ? Bài viết hôm nay chúng tôi sẽ giải nghĩa về giấc mơ câu được cá trắm , cá chép , cá rô hay đều có gì bí ẩn nằm ở trong giấc mơ thú vị này .

Giấc mơ câu được cá chép

Khi mở bạn sẽ thấy câu được cá chép, giấc mơ này dấu hiệu bạn sẽ có thể thăng tiến trong học tập hoặc trong công việc thăng quan tiến chức. Đây là một điều tốt lành mà bạn sẽ gặp trong thời gian sắp đến dành cho bạn.

Cá chép số mấy

Mơ bắt cá đánh con gì ? mơ thấy bắt được cá tốt hay xấu .

Điềm báo giấc mơ này xảy ra là điềm báo sẽ giúp bạn may mắn về tiền bạc trong thời gian tương lai. Sẽ có thu nhập ổn định trong thời gian đến hoặc có người mang tài sản đến với bạn. Đây là một điềm lành tốt đẹp mà bạn có thể gặp.

Công việc, sự nghiệp của bạn sẽ tiến triển tốt nếu trong giấc mơ, bạn mơ thấy mình đang câu cá. Nhưng nếu bạn nằm mơ đang câu cá trên ruộng cạn, rất có thể, một số công việc của bạn không đạt hiệu quả như mong muốn.

cá sấu số mấy

mơ câu được cá rô phi đánh con gì

hiêm bao thấy cá rô phi chính là điềm báo may mắn về đường tình duyên, chuyện tình cảm, nếu là người độc thân thì bạn sẽ sớm gặp được người thực sự yêu thương bạn, còn nếu có người yêu thì những vấn đề không vui trước đó giữa hai người sẽ được giải quyết .

điềm báo may mắn về đường tình duyên, chuyện tình cảm, nếu là người độc thân thì bạn sẽ sớm gặp được người thực sự yêu thương bạn, còn nếu có người yêu thì những vấn đề không vui trước đó giữa hai người sẽ được giải quyết

Mơ ngủ thấy câu được con cá rô phi to thì đánh số: 16, 62

Nằm mơ thấy cá rô phi, cá rô đồng thì đánh số: 26, 62

Ngủ mơ thấy cá rô nhảy lên bờ thì đánh số: 83, 83

Chiêm bao thấy cá rô nhảy trên mặt nước thì đánh số: 30, 11

Nằm mộng thấy cá rô chết thì đánh số: 46, 64

Mơ ngủ thấy cá rô màu đỏ thì đánh số: 69, 96

Mộng thấy cá rô đẻ trứng thì đánh số: 00, 01

thấy chi tiết nằm mơ câu được con cá lóc là điềm báo hoàn toàn tốt lành cho bạn. Giấc mơ ám chỉ rằng sắp tới trong công việc của bạn sẽ có một sự đổi mới, gặp may mắn về đường công danh, sự nghiệp.

Cá lóc số mấy ? đánh con gì ?

Ys nghĩa mơ câu được cá là những giấc mơ tốt lành đem đến những điều may mắn cho chủ nhân. Nếu trong giấc mơ bạn thấy mình đang nhởn nhơ ngồi câu cá thì sự nghiệp của bạn sẽ khá thuận lợi và phất lên như diều gặp gió. Giấc mơ thấy câu cá cũng là điều báo hiệu bạn sẽ được kế thừa một khối tài sản khổng lồ hoặc được người thân trao tặng món quà có giá trị và ý nghĩa tinh thần lớn lao.

Mơ thấy đi câu cá bị đứt dây , rơi mất cá .

Giấc mơ xấu, báo hiệu cuộc sống của bạn sắp gặp khó khăn, trắc trở.

Mơ câu cá đánh con gì ?

Mơ thấy người khác câu cá đánh ngay cặp đôi 66 hoặc 11.

Chiêm bao thấy câu cá chép nên đánh ngay lô đề 60 hoặc 59.

Ngủ mê thấy câu cá trên cạn nên đánh lô đề số 60 hoặc 45.

Nằm mơ thấy đi câu cá nên đánh cặp số 33 hoặc 83.

Chiêm bao thấy cá đánh ngay con 56 hoặc 79.

Mơ thấy mình đi câu cá đánh ngay con 16.

Cách Phân Biệt Các Loài Cá Da Trơn: Cá Tra, Cá Hú, Cá Basa, Cá Bông Lau, Cá Dứa

Nhiều khách hàng khi mua Khô Cá Dứa Cần Giờ tại Nắng Gió thường đặt câu hỏi: việc phân biệt các loài cá da trơn như cá tra, cá hú, cá basa, cá bông lau, cá dứa…như thế nào, sau đây chúng tôi xin chia sẻ một số thông tin cho Quý Khách tham khảo.

Theo tổ chức FishBase, họ cá tra có tất cả 31 loài, riêng ở Việt Nam có 13 loài, trong đó có 2 loài cá vồ cờ và cá tra dầu được liệt kê vào danh sách cá quý hiếm, cấm đánh bắt. Và trên thị trường họ cá tra có 5 loại thường gặp đó là: cá tra, cá ba sa và cá hú, cá dứa và cá bông lau. Chúng có hình dạng giống nhau khiến các bà nội trợ nhà mình rất khó phân biệt.

Cũng theo Bà Phạm Thị Mười – một thương lái về cá nước ngọt nhiều năm tại Chợ Bình Điền chúng tôi sẽ giúp chị em “xem tướng” các loài cá:

Xem đầu: đầu cá ba sa ngắn, dẹp theo chiều đứng; lỗ hõm giữa xương sọ cạn, hẹp nhưng dài; miệng nằm hơi lệch; dải răng hàm trên to rộng, nhìn thấy được khi khép miệng. Đầu cá tra to, gồ, bè ra, dẹp theo chiều ngang; lỗ hõm giữa xương sọ sâu, rộng nhưng ngắn; miệng rộng nằm ở giữa, khép miệng không lòi răng… hô. Cá hú đầu to hơi tròn, hàm dưới hơi rộng, hàm trên nhô ra.

Xem râu: họ cá tra đều có hai đôi râu. Râu hàm trên cá basa dài bằng nửa chiều dài đầu, râu hàm dưới ngắn, bằng 1/3 chiều dài đầu. Hai đôi râu của cá tra dài hơn, tới mắt và mang cá. Râu hàm trên cá hú dài đến vây ngực, râu hàm dưới ngắn hơn.

Xem tướng: cá basa thân ngắn, hơi dẹp hai bên, lườn tròn, bụng to, mặt lưng có màu xanh nâu nhạt, mặt bụng màu trắng. Cá tra thân dài, bụng hơi nhỏ, mặt lưng màu xanh sậm, cầm lên ngang tầm mắt thấy màu sáng bạc, lấp lánh ở sống lưng. Mình cá hú dẹp hơn, nhưng bụng cá hú to nhất, mặt lưng xám đen, mặt bụng trắng xám.

Xem thịt: thớ thịt cá basa nhỏ, đều, có màu trắng; bụng có hai múi mỡ to, hình giống như múi bưởi, màu trắng. Thớ thịt cá tra to, mỡ không trắng; riêng cá tra nuôi hầm có mỡ màu vàng, có mùi hôi, nếu kho gừng thì mùi càng nồng hơn. Tuy nhiên, nếu cắt ra từng khoanh, rất khó phân biệt được các loài thuộc họ cá tra.

Cá Bông Lau – An Giang Cá tra Cá ba sa Cá hú

Còn riêng Cá Bông Lau và Cá Dứa do hiếm và giá cao nên ít thấy bán ở chợ bình dân, thịt rất ngon. Do đánh bắt tự nhiên, kích cỡ cá dứa và bông lau không đồng đều như các loại cá nuôi. Hình dạng và màu sắc cá dứa và bông lau rất giống nhau. Như da mặt lưng màu xám nhạt, thịt và mỡ trắng tinh, đặc biệt các vây bụng, vây đuôi, vây lưng, vây ngực màu trắng nhưng ở phía ngoài cùng có màu vàng khác hẳn các vây cá nuôi.