Bí Kíp Giúp Cá Betta (Lia Thia, Xiêm) Sống Lâu Hơn

--- Bài mới hơn ---

Cá Lia Thia , Cá Lia Thia Đồng

--- Bài mới hơn ---

  • 【4/2021】Giá Bán Cá Lăng Đuôi Đỏ Bao Nhiêu Tiền 1Kg Mua Ở Đâu Tại Tphcm【Xem 739,827】
  • Cá Lăng Sông Đà Tươi Sống Bán Tại Hà Nội Size 3
  • Cá Lăng Đen, Giá Cá Lăng Đen Sạch Sông Đà Tiêu Chuẩn Vietgap
  • Giá Cá Lăng Đỏ, Đen, Đuôi Vàng, Sông Bao Nhiêu 1Kg 2022? Mua Bán Ở Đâu Rẻ?
  • Cung Cấp Cá Mè Hoa Tươi Sống, Cá Mè Tàu Tươi Sống, Cá Mè Ngất, Cá Mè Đông Lạnh Trên Toàn Quốc
  • Cá lia thia, loài cá có kích thước nhỏ ,nhưng màu sắc đẹp, hiếu chiến, vừa là sinh vật nuôi làm cành vừa làm thú vui tiêu khiển .

    1.Cá lia thia đồng đặc tính sinh học

    -Cá lia thia có nhiểu chủng loại như: cá lia thia xiêm, cá lia thia phướng, cá lia thia đồng. Các loại cá lai : xiêm lai phướng ,xiêm lai đồng.Các loại giống mới Beta, Hamoon….Nhưng nhìn chung cá lia thia là loài cá cảnh, cá chọi có kích thước cơ thể nhỏ, trung bình chiều dài thân khoản 6cm-8cm.Có một số loài cái lia thia kích thước lớn trên 8cm.

    -Thức ăn tự nhiên cho cá lia thia cũng khá đa dạng, từ rong rêu, các động vật nhiệm thể, đến các loài cá nhỏ hơn, lăng quăng , trùng trĩ…

    – Cá lia thia có nguồn gốc từ các nước Đông Nam Á như : Việt Nam, Thái Lan, Campuchia. Riêng chỉ Thái Lan là có đầu tư sâu và chuyên sâu nuôi dưỡng và lai tạo loại cá này. Nên thường cá lia thia cũng thường hay gọi là cá Xiêm.

    – Cá lia thia thường sống trong các ao nước nhỏ và thường đẻ trứng vào mùa mưa. Loài cá này rất hiếu chiến khi gặp các con đực cùng loài . Khi chiến đấu cá sẽ phùn mang, thay đổi màu sắc và tấn công đối thủ bằng hàng răng sắc nhọn

    Ảnh cá lia thia đồng

    Cá lia thia cơ bản gồm 3-4 loại gồm :

    • Cá lia thia đồng : loài cá này có nguồn gốc bảng địa ở Việt Nam, sống trong các khu đồng ruộng, các ao nước nhỏ ven các kênh rạch. Trước kia sống nhiều khắp miền Tây, nay chỉ tìm thấy cá lia thia đồng tại các tỉnh Kiên Giang, An Giang và Đồng Tháp Mười. Loài cá này có thân nhỏ so với các giống khác, màu sắc thông thường màu nhạt đến khi chọi nhau thì lên màu rất đẹp. Nhưng sức chiến đấu kém, chỉ chọi nhau được 5-10 phút. Nhưng đặc điểm nổi bật loài cá này là dễ nuôi và sẽ chăm sóc.
    • Cá lia thia xiêm : loài cá có nguồn gốc từ Thái Lan, được lại tạo từ nhiều loài giống cá lia thia, nên loài này có ưu điểm nổi trội như : kích thước to, vảy dày, mỏ dày và răng sắc nhọn. Đặc biệt loài cá này chọi rất lâu có khi lên đến 3-4h mà vẫn chưa có kết quả thắng thua. Loại này có nhược điểm là sống ngoài tự nhiên kém và kém thức ăn.
    • Cá lia thia phướng : loài cá này chủ yếu nuôi làm cảnh, vì có màu sắc đa dạng, sặc sỡ, màu sắc đẹp, có tay bơi dày, vay cá dài to và đẹp cá cũng sống khá lâu từ 2-4 năm. Vì thân hình to và đồ sộ nên chậm chạp trong chiến đấu. Loại cá này cũng có các dòng như beta, fancy, dumboo.
    • Cá lia thia tàu : loại này có nguồn gốc từ Trung Quốc cũng giống cá xiêm, nhưng có vảy cứng, sặc sở . Nhưng giá thành loại cá này cao .

    6.Cách ép cá lia thia đồng

  1. Chọn giống bố mẹ
  2. Chọn môi trường ép cá
  3. Cho tiến hành giao phối
  4. Nuôi cá sao khi nở
  5. Nuôi cá đến khi trưởng thành và tách bầy

7.Cách nuôi và chăm sóc cá lia thia đồng

Khi cá từ 1-2 tháng tuổi, nên cho cá ăn các loại thức ăn bột và tự nhiên như: trứng nước, lòng đỏ trứng luột chín. Nuôi cá trong các chậu sành có kích thước nhỏ, để nơi có ánh sáng trung bình . Trong chậu bỏ thêm rong và bèo cho cá con có nơi bám và chổ che chắn.

Sau khi cá được hơn 2 tháng tuổi có thể cho ăn các loại thức ăn có kích thước to hơn như : lăng quăng, trùng trĩ, thịt các loại thủy sản sống như tôm và tép. Lúc cá 3-5 tháng tuổi các đã to bằng ngón tay. Lúc này có thể tách bầy để tránh cho các con cá chọi nhau gây tổn thương cho cơ thể.

Sau 5-6 tháng có thể nuôi riêng cá theo từ chậu . Kích thước chậu cao tầm 15-20cm và đường kín từ 10-15cm. Cá có thể ăn được các loại thức ăn tổng hợp và kích thước khoản 1mm. Thường xuyên luyện tập cho ca kình bóng trước gương và kình với các con cá khác.

--- Bài cũ hơn ---

  • Bán Cá Lóc Giống( Cá Lóc Đầu Nhím, Đầu Vuông, Chuối Hoa Giống), Báo Giá Cá 2022
  • Giá Cá Lóc Giống. Giá Cá Lóc Thịt. Trang Trại Bán Cá Lóc Giống Uy Tín
  • Cập Nhật Giá Cá Lóc Giống Đầu Năm 2022
  • Khô Cá Lóc Đồng Bạc Liêu Giá Sỉ
  • Giá Khô Lóc Bao Nhiêu 1Kg, Nơi Bán Nào Uy Tính Và Bảo Quản Ra Sao?
  • Rồng Úc (Bearded Dragon) Có Thể Nhịn Ăn Bao Lâu?

    --- Bài mới hơn ---

    • Thiếu Gia Chơi Trội Giết Cá Rồng Ngàn Đô Om Dưa Đãi Bạn
    • Cá Rồng Và Những Bệnh Thường Gặp
    • Tuổi Thọ Cá Rồng Và Cách Chăm Sóc Cá Rồng Chuẩn Nhất
    • Những Lưu Ý Cho Người Mới Tập Nuôi Cá Rồng
    • Các Loại Cá Bảy Màu Rồng Và Cách Nuôi Chuẩn Nhất 2022
    • Bạn sẽ có câu trả lời ngay sau đây về câu hỏi: rồng râu có thể nhịn bao lâu nếu không có thức ăn.

      Bài viết được dịch từ nguyên bản: how long can bearded dragons go without food của chúng tôi Source

      Là một người nuôi rồng râu tốt, bạn nên biết tất cả các hành vi mà rồng râu thể hiện để giúp bạn biết khi có điều gì bất ngờ.

      Ngoài ra, khi thú cưng của bạn ăn ít hoặc thậm chí bỏ ăn, nó sẽ làm bạn lo lắng, đặc biệt là nếu bạn không chắc liệu có phải cho rồng râu ăn hàng ngày hay không.

      Đọc để biết rồng râu có thể nhịn bao lâu mà không cần ăn và hơn thế nữa.

      Rồng Râu Có Thể Nhịn Ăn Bao Lâu?

      Việc cho rồng râu của bạn ăn hàng ngày là điều cần thiết, sự thật là rồng râu có thể tồn tại trong các khoảng thời gian khác nhau mà không cần thức ăn.

      Tất cả phụ thuộc vào một số yếu tố bao gồm kích thước, tuổi, sức khỏe và lý do khiến rồng râu của bạn không ăn.

      Đối với rồng con và rồng thanh niên, chúng cần được cho ăn thường xuyên hơn. Để chúng một mình mà không có thức ăn trong một ngày là một lựa chọn OKAY. Nhưng tôi khuyên bạn nên cho chúng ăn thường xuyên hơn.

      "cho ăn là quan trọng, đừng xao lãng nha bạn ơi"

      Tôi rất vui vì giờ đây bạn đã biết rằng rồng râu có thể tồn tại vài ngày mà không cần thức ăn.

      Nhưng nó không bao giờ nên là cái cớ để bạn không cung cấp thức ăn cho thú cưng của mình hàng ngày.

      Chúng ta cần thực phẩm hàng ngày để luôn khỏe mạnh và chắc khỏe, rồng râu cũng vậy.

      Do đó, có thông tin chính xác về việc rồng râu ở lại mà không có thức ăn sẽ giúp bạn lập kế hoạch và để lại những gì có thể nuôi thú cưng của bạn mà không bị chết đói.

      Đây cũng là một ý tưởng hay để hạn chế việc nhờ vả người lạ chăm sóc rồng râu, đặc biệt là khi bạn không tin tưởng họ.

      Khi một con rồng râu từ chối ăn thức ăn và hành vi này tiếp tục trong vài ngày, nó thực sự là một sự rắc rối nếu bạn không chuẩn bị từ trước. Thực tế là rồng râu có thể sống mà không có thức ăn, điều này sẽ giúp bạn yên tâm rằng thú cưng của bạn được an toàn trừ khi bạn nghĩ rằng nó có vấn đề về sức khỏe.

      Rồng râu baby

      Nếu bạn sở hữu một con rồng râu baby, tôi chắc chắn rằng bạn đã quan sát thấy điều đó và bạn hoàn toàn đồng ý với tôi.

      Do tốc độ tăng trưởng nhanh, con baby cần nhiều thức ăn để tiếp tục phát triển.

      Chúng cần thực phẩm chứa nhiều protein hơn để giúp chúng phát triển mạnh mẽ và khỏe mạnh.

      Do đó, điều này có nghĩa là rồng con không thể sống trong một thời gian khá dài mà không có thức ăn.

      Chúng đang ở giai đoạn nhạy cảm, khi chúng đòi hỏi sự chăm sóc hàng ngày và rất nhiều sự quan tâm (cho ăn) của bạn.

      Chúng cần được cho ăn hàng ngày vì chúng đang phát triển với tốc độ nhanh hơn bất kỳ giai đoạn nào.

      Rồng râu thanh niên(Juvenile)

      Nếu rồng râu của bạn đang ở độ tuổi tiền trưởng thành, bạn có thể yên tâm để nó trong một ngày mà không có thức ăn.

      Nhưng hãy nhớ rằng, tất cả những con rồng râu thanh niên cũng đang phát triển rất nhanh và cần bạn cho chúng ăn thường xuyên hơn.

      So với loại baby, tốc độ phát triển của thằn lằn thanh niên chậm hơn một chút. Một nửa chế độ ăn của chúng nên bao gồm protein để giúp chúng phát triển mạnh mẽ và khỏe mạnh.

      Tuy nhiên, không cho ăn dù chỉ trong một ngày sẽ không phải là lựa chọn đúng đắn vì nó có một số ảnh hưởng đến sự tăng trưởng. Rồng thanh niên vẫn cần được cho ăn hàng ngày vì chúng cũng đang lớn nhanh.

      Rồng râu trưởng thành

      Đầu tiên, con trưởng thành không cần ăn thường xuyên hơn, như con non và rồng vị thành niên.

      Chúng chỉ cần được cho ăn một hoặc hai lần một ngày. Dù trường hợp nào thì với họ cũng được.

      Thứ hai, rồng trưởng thành có thể thoải mái vài ngày mà không cần ăn gì, và sẽ không có vấn đề gì.

      Điều này có thể xảy ra bởi vì người trưởng thành có sự trao đổi chất thấp và họ có thể phân hủy chất béo trong cơ thể, chuyển hóa thành năng lượng để nuôi dưỡng.

      Vì vậy, một khi rồng râu đã trưởng thành, nó có thể không ăn trong vài ngày.

      Điều này được thể hiện rõ ràng hơn, đặc biệt là ở những con rồng râu hoang dã có thể tồn tại trong vài tuần mà không cần ăn.

      Chúng hầu như phụ thuộc vào lượng mỡ dự trữ của cơ thể để tồn tại trong thời kỳ đó.

      Không ăn hoặc bỏ ăn ở rồng râu trưởng thành trong 2-3 ngày hoặc thậm chí một tuần sẽ không phải là một vấn đề lớn.

      Chúng có thể tồn tại trong ngần ấy thời gian mà không cần thức ăn.

      Tại sao rồng Úc bỏ ăn?

      Rồng râu không chịu ăn là khá phổ biến. Nếu bạn không biết chuyện gì đang xảy ra, nó có thể khiến bạn lo lắng.

      Ngủ đông

      Ngủ đông là giai đoạn mà phần lớn các loài bò sát dành một thời gian khá dài để ngủ trong mùa đông. Cho đến nay, đó là nguyên nhân chính khiến rồng râu bỏ ăn.

      Trên sa mạc, rồng râu có xu hướng vùi mình vào đất; họ không cử động, không ăn uống, cũng không đi đại hay tiểu tiện. Mặt khác, không phải tất cả những con rồng râu trong điều kiện nuôi nhốt đều sẽ ngủ đông.

      Vì vậy, nếu thú cưng của bạn không ngủ đông, nó vẫn khỏe mạnh và không có gì phải lo lắng cho bạn.

      Đổi chế độ ăn

      Rồng râu là loài kén ăn, và đôi khi việc cho chúng ăn rất khó khăn, đặc biệt là khi chúng được cho làm quen với thức ăn mới.

      Nếu thú cưng của bạn đã quen ăn thức ăn côn trùng sống, chúng có thể không muốn ăn côn trùng khô hoặc bất cứ thứ gì khác.

      Có thể mất một tuần hoặc có thể hơn trước khi rồng râu có thể chấp nhận thức ăn mới; nghe có vẻ cứng đầu, nhưng đó là điều bình thường.

      Sự thật là trong thời gian này, nếu rồng râu không được ăn, nó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng.

      Nhưng đừng bỏ cuộc, hãy tiếp tục cung cấp thức ăn mới cho thú cưng của bạn, và cuối cùng nó sẽ hiểu ai là người quyết định. Sau đó nó sẽ chấp nhận thức ăn.

      Cách tốt nhất vẫn là train cho rồng râu của bạn ăn thức ăn mới theo từng bước. Điều này giúp đảm bảo sức khoẻ cho chúng và đồng thời cũng không gây ra buồn chán.

      Rồng râu bị bệnh

      Bạn có thể cho rằng rồng úc của bạn không ăn bởi vì nó đang làm nũng, trong khi thực sự đang bị bệnh.

      Đau ốm có thể khiến rồng giảm cảm giác thèm ăn. Tuy bệnh tật là hiếm gặp ở rồng úc, và điều này có nghĩa là trong hầu hết các trường hợp, chúng bỏ ăn do những lý do khác.

      Tuy nhiên, nếu bạn cảm thấy rằng chúng đang gặp vấn đề, hãy nhớ thông báo cho bác sĩ thú y bò sát của bạn.

      Bác sĩ thú y sẽ ở một vị trí tuyệt vời để biết được con rồng râu có bị bệnh hay không sau khi chẩn đoán.

      Nhiệt độ không chính xác

      Thông thường, rồng râu là loài thằn lằn máu lạnh, và do đó, chúng cần sống ở những nơi nóng để giữ ấm cho cơ thể.

      Nếu nhiệt độ trong chuồng dưới mức trung bình, rồng râu có thể hôn mê và chắc chắn sẽ từ chối thức ăn.

      Duy trì nhiệt độ tối ưu trong môi trường sống là cần thiết để giúp rồng râu tiêu hóa thức ăn hiệu quả.

      Rồng râu tiêu hóa không tốt do nhiệt độ thấp có nghĩa là chúng sẽ không thể dùng bữa tiếp theo.

      Để ngăn rồng râu bị lạnh, bạn nên giữ nhiệt độ của bể ở mức lý tưởng. Điểm phơi nắng nên nằm trong khoảng 35-43 °C tùy thuộc vào độ tuổi và khu vực mát mẻ vào khoảng 26-32 °C.

      Căng thẳng ở rồng râu

      Nhiều thứ có thể gây căng thẳng cho rồng râu, bao gồm những con rồng khác, vật nuôi trong nhà, quần áo, đồ chơi, v.v.

      Một con rồng bị căng thẳng sẽ biểu hiện các dấu hiệu khác như bộ râu đen, và nó sẽ hành xử bất thường.

      Bạn cần đảm bảo kiểm tra mọi thứ xung quanh có thể khiến thú cưng của bạn căng thẳng và loại bỏ chúng.

      Căng thẳng sẽ kết thúc sau vài giờ khi bạn phát hiện ra và loại bỏ bất cứ điều gì gây ra nó. Đôi khi rồng râu có thể mất cả tuần tùy thuộc vào mức độ căng thẳng.

      Thay đổi trong môi trường

      Nếu gần đây bạn đã mua một chú rồng úc hoặc bạn đã thay đổi môi trường cho rồng úc, hoặc bạn thêm một số phụ kiện mới trong lồng, rồng úc sẽ cảm thấy bị quấy rầy.

      Sự thay đổi trong lồng hoặc môi trường có thể là lý do tại sao thú cưng của bạn không chịu ăn.

      Điều đáng lo ngại là bạn có thể sẽ không giải quyết được gì trong trường hợp này. Bạn chỉ cần cho nó thời gian, và vấn đề sẽ được giải quyết khi con rồng úc thích nghi.

      Nhưng nếu có căng thẳng vì những thay đổi bạn đã thực hiện trong lồng nuôi, hãy thử loại bỏ các vật liệu mới và quan sát cách phản ứng của rồng râu. Nếu chúng thèm ăn trở lại, hãy loại bỏ những vật phẩm mà bạn đã lấy ra.

      Bạn có thể ép rồng râu ăn hay không?

      Ghi chú: Ở đây, nguyên văn là “force feed”, force feed là khái niệm ép buộc thú cưng ăn khi chúng bỏ ăn quá lâu.

      Ép ăn một con rồng râu không phải là điều gì mới mẻ, và rất nhiều người đã trải qua điều đó.

      Thông thường, rồng có râu sẽ ăn những thứ chúng cần, và nếu bạn ép chúng ăn những gì chúng đã từ chối, điều đó có thể dẫn đến các vấn đề về sức khỏe.

      Thời điểm duy nhất nên ép râu là khi nó trở nên yếu đi rõ ràng và ngày càng gầy đi. Nhưng như tôi đã nói, đừng bao giờ cố gắng tự mình ép chúng ăn.

      Trước tiên, bạn phải đưa chúng đến bác sĩ thú y bò sát của mình để ép chúng ăn. Bạn chỉ nên cho rồng úc ăn khi bác sĩ thú y đề nghị. Bên cạnh đó, bác sĩ thú y cũng sẽ chỉ cho bạn cách tốt nhất để ép ăn rồng râu đúng cách.

      Vì vậy, sau khi nhận được lời khuyên từ bác sĩ thú y bò sát của bạn, đây là các bước bạn sẽ làm trong việc ép ăn một con rồng. Đó là một quá trình đơn giản.

      • Từ từ cầm rồng râu lên – nhẹ nhàng và cẩn thận.
      • Đảm bảo rằng nó cảm thấy thoải mái.
      • Mở miệng của rồng râu bằng cách kéo hàm dưới xuống và thực hiện nhẹ nhàng.
      • Đưa một ít thức ăn vào miệng.
      • Đôi khi, bạn có thể cần sử dụng ống tiêm khi cho rồng con ăn thức ăn.

      Tổng kết lại

      Khi một con rồng râu bỏ ăn, bạn cần biết rằng hầu hết đó là điều bạn có thể nhanh chóng giải quyết. Vì vậy, nếu râu từ chối ăn và làm loạn, bạn cần kiểm tra lý do và hành động phù hợp.

      Tôi hy vọng rằng bây giờ bạn hiểu rồng râu có thể sống được bao lâu mà không cần ăn.

      Đó là một điều tốt khi bạn biết thêm một điều về thú cưng của mình. Nó sẽ giúp bạn phản ứng theo cách phù hợp khi rồng úc bỏ ăn và cần bạn giúp đỡ.

      --- Bài cũ hơn ---

    • Chia Sẻ Kinh Nghiệm Chơi Cá Rồng Sau 1 Năm
    • Tổng Hợp Các Loại Cá Rồng Quý Hiếm Và Thịnh Hành 【 Phần 1 】
    • Con Cá Rồng Chục Ngàn Usd: Thú Chơi ‘ông Hoàng’ Của Đại Gia Việt
    • Lão Nông Miền Tây Bắt Được Cá Rồng 1,6M Đỏ Như Máu, Chôn Vội Không Dám Ăn Vì Cực Thiêng
    • Cách Nuôi Cá Rồng Kim Long Quá Bối 24K9999

    Thú Chơi Cá Lia Thia – Cách Lựa Cá Lia Thia

    --- Bài mới hơn ---

    • Nuôi Cá Cảnh Thuận Phong Thuỷ Ắt Thành Công
    • Bí Kíp Giúp Cá Betta (Lia Thia, Xiêm) Sống Lâu Hơn
    • Trại Cá Betta Nghĩa Hiền: Bán Cá Xiêm Betta Thái Cao Cấp Sỉ / Lẽ 302267
    • 5 Bệnh Phổ Biến Ở Cá Betta Và Cách Chữa
    • Cây Hồng Xiêm – Cách Trồng Và Chăm Sóc Cây Hồng Xiêm
    • Thú chơi cá “thia-thia”

      Thia-thia đá bóng trong keo,

      Ham vui trước mặt, quên nghèo sau lưng.

      Ao sâu cá lội khoe màu,

      Đố ai biết mỗ: bã trầu, thia-thia?

      V.H.S

      Thua thì thua mẹ thua cha,

      Cá sinh một lứa, ai mà thua ai!

      (Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, Huỳnh Tịnh Của)

      CÁ THIA-THIA. Chuyện địa phương, chỗ nhau rún nói ra họa may không ai nói gì, chớ tôi rất sợ các ông làm tàn, giỏi nghề ngồi không moi móc.

      – Bạn nhỏ đá cá chơi, không ăn tiền, cũng không có tiền mà ăn, – cốt tranh nhau giữa nhóm “hỷ mũi chưa sạch”: con cá mày dở vì hớt tại đồng “mấy thằng đánh giặc thua”, không như con cá tao hay lắm, vì gốc nó ở trên Hòa-Hưng, còn phảng phất vong hồn “tụi đánh giặc chống Tây” đời trước!

      – Bọn già thì bất chấp điển tích, họ nghĩ rẻ rề: lấy đó làm nghề sanh nhai, “chạy gạo”, kiếm tiền nhậu nhẹt, hút xách, chơi bời… Đối với họ, mùa hạn, thì chơi gà. Mùa ướt, gà đổ lông, thì day qua đá cá: có thế thôi. Chừng nào cá cũ, thì bắt qua mùa gà. Trái đất cứ xây, người dân Việt quê, chỉ biết gà gà, cá cá…

      Hồi còn mài đũng quần trường tỉnh xứ Sốc-trăng yêu nhớ, một trang một lứa nay còn sống sót ở đất Sài-gòn, đếm số còn thua số răng trên hai hàm lão già bảy chục, (không kể răng do các bác-sĩ nha-y trồng, nhìn không ra), lúc thiếu thời ấy, chúng tôi không gì thích bằng ngày lễ nghỉ xả hơi hay ngày chúa nhựt, sau khi bày vở đâu êm vào đó:

      Rồ-lem (problème) làm rồi, con-bò-té-sông-răng-ke (composition française) vừa làm rồi; chia quẹt-bờ (verbe): rồi mà chưa, để sáng coi lại còn dư chán: anh-đi-xúc-tép-về-rang (indicatif présent) chưa mà rồi, vì dễ ợt, mai sáng chép vô tập còn kịp; bài học thuộc lòng, cũng nhớ làu làu, ngặt nỗi đọc lên như kéc mẹ chớ nhiều câu không hiểu nghĩa, nhưng dám chắc trong lớp cũng bí-lù như mình, tóm lại “đâu êm vào đó”, chừng ấy chúng tôi bèn rủ nhau, mỗi đứa cụ bị một rổ con hay một mủng trẹt, kèm thêm một chai nhỏ, thứ chai dầu thơm “Cô Ba” của mẹ hay chị đựng dầu dừa hay giấm chua, sẽ lén lấy, mượn đỡ hay ăn cắp cũng vậy, đem súc sạch và chứa sẵn nửa phần nước trong, đồ nghề đại khái rổ và chai cặp nách sẵn sàng thì hè nhau kéo ra đồng ruộng chia tay hớt cá.

      Không phải bất cứ đồng nào cũng có cá hay.

      Phải rành đôi chút mới chắc ăn kiểu “ba bó một giạ”.

      Chung quanh thành phố Sốc-trăng, năm ấy (lối 1914 – 1915) tôi biết có:

      1) Đồng Lọ-Nghẹ, ở phía sau trại lính Ma-tà. Gần đám ruộng nầy có nhà thợ rèn ở nhiều, than bụi tro lò đổ xuống nước ruộng, lâu ngày nước đen ngòm: thia-thia đồng nầy có màu đen đúa chắc da chắc thịt như con cháu tướng Uất-Trì đời Đường, vảy da như trui, thoét trong lò nấu đồng thổi sắt, nên đinh ninh cá đồng nầy “mình đồng gan sắt”, răng cứng như thép khóa chắc trong hàm như trong họng kềm: cá đồng nầy không chạy mặt cá đồng nào! Thảm nỗi, đồng ở gần trại lính Ma-tà, mà con cháu Ma-tà dữ quá, hễ chúng nó gặp bọn tôi lén hớt cá đồng Lọ-Nghẹ thì bọn nó đánh chúng tôi chạy bò lê bò càng, không biết đường về.

      2) Đồng hàng tràm, gọi cá chùa Phật, vì nơi đây có chùa thờ đức Di-Đà. Nhờ lá tràm tích-đọng lâu năm, nhuộm nước đỏ au, – lá tràm vả chăng là vị thuốc đón gió ngừa phong, – nên cá vùng nầy mình như tẩm thuốc, bắt được con nào bỏ vô chai, ít giờ sau quen nước quen cái, cá phùng mang sậm màu, vảy xanh ửng hồng, đuôi đỏ chớp sao, chăm bẳm như các tổ-sư Bồ-Đề, hay nói cách khác, như thầy bùa, thầy ngải giỏi nghề “gồng chém không đứt” hay có học “xầng-tả”, xìn tả (thần đả). Năm xưa, nơi đây tôi hớt được một con “cá nái”, lớn bằng ngón tay út, lưu lại nhiều năm quá nên quá cỡ, không cáp độ gặp cá nào bằng nó, tôi để đá bóng chơi và đặt chiến danh là “Ngũ-Lang hòa-thượng”! để nhớ thành tích ông tướng “thầy chùa” trong tuồng “Mộc Quế-Anh dâng cây”. Con cá nái nầy, khi tôi hớt được, bỏ vào chai không lọt, phải gởi qua chai khác, đủ biết nó lớn con đến bực nào!

      3) Một đồng khác là đồng Lình-kía (Long-tử cang), ở phía chùa Phật sau nhà máy Quách Xên. Tuy mang danh đẹp là “cá xóm Rồng con”, nhưng thia-thia đồng nầy không anh hùng chút nào, vì ở xóm chệc rẫy, bủng dứ vì quen tiêu thụ những đồ thừa của bọn nầy gởi trong đám ruộng bên nhà.

      4) Một đồng khác nữa, rất xa xăm đối với cặp giò trẻ thơ của chúng tôi buổi đó, là đồng Bắc-Tà-Ky (tên thổ). Đây là ruộng phụ ấm của ông cậu họ Trần, nguyên con quan Đàng Cựu, xưa kia ngồi trấn xứ Ba-Thắc (srock Passac, tức Sốc-trăng). Cá vùng nầy nổi danh một thuở, bền gan không đâu có nhưng ít ai kiếm được lắm. Chủ ruộng là nhà đá cá lớn, dạy tá-điền canh chừng nghiêm mật, không ai hớt lén được. Đặc sắc trong vùng có thứ cá-kỳ-son, tức kỳ trên lưng có chấm một điển son, đây là giống cá xiêm lai biệt dạng của chủ ruộng đúc nắn lâu đời: cắn quạu, bền gan bực nhứt. Ông Trần, ông cậu của tôi, xưa có một con, ăn trọn mùa, không chạy độ nào, danh còn nhắc: “cá Triệu-Tử”.

      5) Tệ nhứt là cá đồng Thầy Tám, trên đường đi Cần-thơ. Thầy Tám nguyên là pháp-sư, chuyên chữa bịnh bằng phù-chú. Thây ma chết chôn sau am, cá sanh vùng nầy lẹt đẹt không khác những con bịnh đau ma do thầy Tám chữa chạy: chưa đá chưa cắn ai một miếng nào, đã xếp đuôi xếp giáp, chạy cuốn cờ! Nguyên sở ruộng Thầy Tám là cuộc đất gò, nước cạn. Thảo nào cá thiếu nước không nơi dụng võ, ngắn hơi và nhát gan là lẽ cố nhiên. Tôi nói nước ít nên cá nhát gan, vì kinh nghiệm dạy rằng con cá ở nước sâu quen nín hơi, lâu lâu mới lên đớp bóng một lần, nhờ đó mà chịu đựng hay, bền hơn cá ở nước cạn.

      6) Đồng lác, đồng cỏ năn, ở phía sau nhà thương tỉnh, dọc theo đường đi xuống Bang-Long (tục gọi quận Giếng Nước). Cá vùng nầy dở hơi, vì sanh trưởng trong lác, trong năn, trong cỏ, nên không có chi đặc sắc (thuở ấy chưa có anh hùng Rừng Sác, nước mặn). Tuy vậy đừng quen chê sớm mà lầm to có ngày, vì may thời Tổ đãi, hớt được cá kinh niên, thứ cá trốn ẩn lâu năm gần nhà xác, hình như còn oan hồn uổng tử vấn vương, hoặc nữa hớt được những cá lẻ loi sống chung lộn nhiều năm trong bộng trong hang rắn dữ, ngày ngày từng hớp nước có nọc con ác-xà phun ra, cá quen hơi rắn nên không hầy hấng, chực khi đụng độ với cá lạ đồng, thì khác nào con xà-niên ngậm ngải đối chọi với phàm phu, có thể nói bách chiến bách thắng. Tôi đã nói phải là có Tổ đãi mới bắt được thứ cá dữ nầy. Khoan vội tin lời tôi, ham thọc tay vào hang rắn, có ngày bỏ mạng!

      Về việc nầy, tôi đã từng ngộ trận, một phen tởn tới già, nay nhắc lại nghe chơi mà còn rởn tóc gáy: Bữa ấy, trời mưa rỉ rả, tại đồng Hàng Tràm, mặt trời vừa xế bóng, tôi đặt rổ xuống nước, vừa lấy chơn giậm giậm xung quanh rổ rồi rút rổ lên, nghe như được một vật gì nặng nặng. Rổ lên vừa khỏi mặt nước. Mẹ cha ôi! Một con rắn hổ lên nước đen mun, nằm khoanh tròn chật rổ. Khỏi nói, tôi vừa thấy rắn, ba hồn bảy vía lên mây, lẹ như chớp, tôi quăng rổ té bật ngửa ra sau, không kể áo quần ướt vấy, mặt cắt không còn chút máu. Úy hà! Chút xíu nữa, không còn sống mà viết bài nầy! Quên nói, rắn ta cũng hoảng hồn hoảng vía (nếu thật rắn cũng có hồn), rắn đánh cái “tỏm”, buông mình xuống nước, phăn phăn lủi bụi trốn theo đường, rắn cút mất tự thuở nào!

      Các anh em bạn theo tôi bữa đó đều chạy té đùn cục trong ruộng sình, báo hại thia-thia huyền bí đâu chẳng thấy, duy thấy một phen vỡ mật hú hồn.

      Một lần khác cũng tại đồng Hàng Tràm nầy, tôi lại bị trâu dữ rượt, chạy bò càng, ve thúng quăng mất, may sao còn giữ được hồn. Con trâu nầy tôi nhớ rõ, sừng của nó, không biết vì sao không dựng quớt lên mà vẫn nằm lòng thòng hai bên đầu, có lẽ nếu nó húc cũng không hại gì lắm, nhưng nói giỏi, sao hồi đó không ở lại mà thử sức với nó! Tởn đi một dạo rồi chứng nào tật nấy, tôi cũng mon men ra đồng xúc cá, vì thuở ấy, thú thật, chúng tôi tiền bạc đến một đồng một chữ cũng chẳng có dính lưng, cho nên chỉ biết những thú vui không tốn tiền; mà theo tôi còn vui nào bằng ngày chúa nhựt đi hớt cá thia-thia, để được nhăm nhi củ kiệu chua nhai nghe giòn rụm, bây giờ nhắc lại còn chảy nước miếng!

      Độ xưa, một nhà chơi cá ở chợ Sốc-trăng, có một con cá kỳ quặc, ông ta lượm nó ngoài đồng, ở sẵn trong một bình vôi sành mẻ miệng, bỏ gần bên gò mả loạn. Ông rinh luôn như vậy đem về nuôi, để y con cá ấy trong bình vôi của nó quen ở, trừ khi nào xách ra trường cáp độ, khi ấy ông mới vớt nó ra đọi ra thố đường hoàng. Con cá nầy có thể nói là lạ lắm, vì thắng không biết bao nhiêu độ, về sau không ai dám đem cá đối thủ với bất cứ cá nào của chủ nó, báo hại ông ta vì một con cá linh, thắng độ hoài, mà chủ không tiền hút! Tôi sau nầy, vì đi học trường lớn, cũng mất tích con cá ở bình vôi gò mả hoang nầy.

      XÚC, BẮT, HỚT CÁ THIA-THIA

      Muốn có được cá để chơi, phải có chút ít kinh nghiệm. Kinh nghiệm nầy không có trường nào chuyên môn dạy. Thuở đó, dẫu là con ông Thông đứng bàn ông Chánh, hay con Thầy ký Kho bạc, muốn có cá chơi, phải lén cha lén mẹ, phải lo lót xin thọ giáo với các tay rành nghề, mà không ai khác hơn là bọn bộ hạ dưới tay cha mẹ chúng, bọn trẻ chăn trâu giữ bò, cắt cỏ ngựa, mục-đồng, bọn ở đợ. Dạy không lấy tiền công tiền Tổ, cao thượng vậy thay. Duy phải chiều lòn, dẹp bỏ bộ tịch “cậu”, dày công tâng hót thì họ mới truyền nghề. Một trang một lứa với tôi năm đó có con ông Huyện Kim, con Thầy Thông Tây, toàn là tay “công-tử”, con các người có máu mặt đương thời. Trối kệ, phải xuống nước nhỏ, dẹp chức “Ấm” vào ngăn kéo, tôn họ làm “Sư”, làm “Mồ Tổ”, họ mới đoái hoài. Quên nữa, và phải trốn học, theo họ ra ngoài đồng ruộng, đổi với họ một khúc bánh mì thì họ cho leo lưng bò cỡi thử một chặp, hoặc dâng cho họ “đồng xu mẹ cho để dành ăn bánh”, thì họ cho phép lội xuống ruộng sình, bước lỏm bỏm theo họ mà hớt cá thia-thia hay là bắt ốc! Trốn trường cũng vì muốn biết cỡi bò, bỏ lớp, hoang phế việc học hành, cũng vì ba con cá xanh-xanh đỏ-đỏ! Thầy dạy chúng tôi hớt cá là anh Tỷ-Bò. Anh chăn bò, “giữ bò” từ lên sáu. Cứ mỗi sáng, cho ăn ba miếng cơm nguội no nê, chú đày tớ già bồng Tỷ đặt trên lưng bò, đèo thêm chai nước mưa, và mo cơm vắt…. Ra đồng, trọn ngày hết ngồi đến nằm, Tỷ ở trên lưng thú, nắng mưa phú có cao xanh thương xót, một cái nón rách, một chiếc áo tơi, – con nhà nghèo có ông Trời nuôi, – Tỷ mạnh lành, da đỏ sậm có cần gì hứng gió Long-Hải, tắm nắng Vũng-Tàu? Chiều lùa bò về, chú tớ già ẵm Tỷ xuống cho Tỷ xã hơi, cơm nước, ngủ nghê, ngày ngày y một kiểu như thế cho đến tuổi Tỷ lên xuống lưng bò mình ên được. Mà cái tuổi ấy không xa, mới ngộ chưa, vì cỡi bò được ít lâu, Tỷ đã dạy được con bò cầm bầy tên là “Cành-Tết”, biết nằm xuống, mỗi khi Tỷ cần dùng không muốn ở mãi trên lưng nó: bò nằm rồi, Tỷ bắn lùi như tôm, đít đi trước, chân đụng đất bình yên vô sự, nào cần ai bồng ẵm? Khi lên, Tỷ dạy “Cành-Tết” nằm nữa, Tỷ trèo, – có khó hơn khi xuống một tý, – trèo như kiểu thằn-lằn ôm cột đình, nhưng rồi cũng trèo lên lưng bò được, chớ không sao! Tỷ giấu nhẹm chú tớ già việc nầy, để hưởng tận cảnh: “cực thì có cực, nhưng khổ thì không khổ”. Ai ở đợ ra sao không biết chớ Tỷ không bao giờ bị chủ rầy la, một bầu trời nước bao la, mặc sức nghêu ngao hò hát! Sạm da vì nắng, săn thịt vì mưa, không hề sổ mũi gió máy bậy bạ, không bao giờ biết nhức đầu là gì, lên mười tuổi, Tỷ vỗ ngực xưng “Chúa tể Đồng Trường Đua”, “ngô chánh thị Tỷ-Bò thị giả!!!”

      Không chuyện gì xảy ra ngoài đồng ruộng mà Tỷ-Bò không thạo: gò nào có rùa vàng, rùa nấp ở; hễ thấy dấu cỏ dấu đất ra làm sao là Tỷ biết có con vật ẩn núp dưới bụi đế hay gốc lức, v.v… Vì vậy mà Tỷ-Bò mỗi ngày mỗi lục lạo, lục còn hơn học trò lớp nhứt khuấy rầy quyển tự-vị lúc dịch “version” Tây! Con rắn làm hang như thế nào, và con rắn ấy là loại rắn gì, Tỷ-Bò biết đủ. Tỷ-Bò quả quyết thuốc “không xa”, và thường thường có giống cỏ nào mọc gần miệng hang, thì cỏ ấy là món thuốc thần trừ nọc con độc-xà kia vậy. Tỷ-Bò cam đoan đêm nào trăng sáng là rắn ra trững mỡ, “giỡn trăng”, chầy ngày lăn lộn trững đùa trên đám cỏ, sao sao cũng chảy dãi, nhểu nước miếng thấm cọng cây lá cỏ, tẩm già chất độc, chất nầy nhờ gội sương chan nắng nhiều ngày mà dịu lần, biến nên môn “thuốc ngừa” (kiểu nầy y như kiểu thuốc ngừa do viện Pasteur bào chế!). Tỷ-Bò dốt mà sao nghiệm được việc nầy, lạ thật! Mai sau người nào nếu bị rắn cắn, cứ nhớ tìm hang nó và bứt một mớ cỏ mọc nơi miệng hang, lớp đem về nấu nước uống, lớp nhai cấp kỳ nuốt nước và lấy xác đắp lên chỗ bị cắn, là có cơ thoát khỏi nạn nghèo! (Tỷ-Bò chúc ngôn).

      Nghe làm vậy thì hay làm vậy, chớ tôi chưa dám truyền-bá, đem phương nầy bày vẽ cho ai thí nghiệm bao giờ. Nay viết ra đây cũng không bảo-kê hiệu quả. Tóm lại, chồn đèn, chuột đồng, kỳ-đà, rắn mối, rùa vàng, cá bộng, các con sinh vật ở ruộng, nhứt cử nhứt động là Tỷ-Bò hay biết từ đường đi nước bước. Sau nầy, mặc dầu tôi đỗ bằng Trung-học, “lên mặt” trở về làng, nhưng đối với môn vạn-vật-học và môn địa-dư tỉnh nhà, tôi vẫn như thuở còn bé thơ, thua anh Tỷ-Bò xa lắc! Miền Nam, từ cửa “Vàm Tấn” (Đại-Ngãi) cho đến sông Ông Đốc (Cà-Mau), không một khúc quanh nào mà Tỷ-Bò không biết tên, không một xẻo-co nào mà Tỷ-Bò chưa từng đặt chơn đến đó. Giờ nào nước lớn, nước ròng, nước đứng, Tỷ-Bò thuộc nằm lòng. (Nhờ vậy mà muốn đi đây đi đó, Tỷ-Bò không cần chèo chống. Một lá buồm rách, một cơn gió thuận, một chuyến nước xuôi, Tỷ-Bò thả ghe vô ruộng. Công việc xong xả, Tỷ-Bò chờ con nước, thả ghe về nhà, không tốn công chèo, còn hay hơn đời nay, sắm máy thế chèo mà có khi máy trục trặc, đã tốn tiền thêm mất công linh chờ đợi). (Không nói đến cái nạn mọi việc đều máy móc thay thế, sau nầy tầm vóc, bắp thịt đàn bà Việt sẽ kém thua bây giờ vì còn thể-thao chèo bơi gì nữa đâu?) Nói quá xa đề, nhắc lại đối với Tỷ-Bò, tuy vô học, nhưng con thú nào kêu la làm sao…, chỗ nào đào xuống là bắt được rắn hổ, chỗ nào đốt cỏ già hơi là có rùa mập bò ra, v.v…, tắt lại, địa-lý, địa-dư vùng đồng Ba-Thắc (Sốc-trăng), Tỷ-Bò xem rẻ như thò tay vào túi lấy đồ.

      Hôm nào chúng tôi được theo sau lưng Tỷ-Bò ra đồng, thì hả hê bữa ấy: không cháo rùa cũng rắn xào, lươn um, hoặc cá lóc mập ú bó đất sét nướng trui vào lửa rơm, ăn nội cái “filet” chấm muối hột, “nóng hổi, vừa thổi vừa ăn”, đến nay còn thèm. Chúng tôi hùn tiền sắm gần đủ nồi ơ, chảo, đũa, gởi kỹ miễu “Ông Tà”, đũa rất ít dùng; vì chúng tôi kinh nghiệm ăn “bốc tay” sướng và ngon nhất! Chúng tôi không mê Tỷ-Bò không được! Tỷ-Bò rất khác tôi. Tôi thì, học toi cơm, học thuộc tên tổng tên làng làu như cháo lỏng, đọc như kéc mẹ, tên thảo mộc, tên chất khoáng hay ngũ kim, tôi kể giòn hơn lặt rau rang bắp, thế mà nếu ai hỏi vặn: làng ấy ở đâu, chất ấy biến thể ra gì, tôi sẽ ú ớ như đứa câm ăn ớt: học mà không hành, tôi kém Tỷ-Bò hằng mấy dặm! Biết mà thiếu kinh nghiệm, ra trường đời, tôi chỉ là thằng hủ nho Tây đại chi vô dụng!!!

      Anh Tỷ-Bò dạy tôi phương pháp hớt cá lia thia.

      Anh dặn: “Khi để chơn xuống ruộng sâu, thì phải nhớ không còn là con cưng của cha mẹ tại nhà nữa. Muốn nhỏng nhẻo thì ở nhà. Đến đây, phải biết hòa mình cùng Trời Đất: tập bước cho khéo chân, cá không giựt mình, mới có mà bắt. Lựa gốc rạ, dốc lức mục, giẵm cẳng lên đó thì khỏi sợ sa lầy khỏi uống nước bùn. Dẫu đỉa trâu lớn bằng ngón cái nó đeo bắp vế non, và dẫu đỉa hẹ đỉa mén mỏng như lá lúa bò lúc nhúc, lòng thòng trên bắp chuối, thì trối kệ nó! Dẫu vắt rừng cắn, máu ra ướt đỏ chân, háng, thì cắn răng để vậy! Tập chịu, thét rồi quen! Đó là thường sự! Muốn làm dân ruộng thì phải tập cho quen lần: tập cắn răng nín khóc, đau thế mấy cũng không được la! Rên la không ích gì, và chỉ làm bối rối người lớn, thêm làm cho cá tôm hoảng chui trốn mất, mà lỡ cơ hội tốt. Tập lâu ngày thì hết sợ; rồi thét đi sẽ dạn lần, sẽ thấy vui thú. Cần nhất là miễn sao đừng để đỉa con, vắt mén chui vào hậu môn, vào lỗ chỗ nhược, thì thầy chợ cũng khoanh tay mà Tỷ-Bò cũng vô phương tiếp cứu! Học bao nhiêu đó trước đã, rồi Tỷ sẽ dạy thêm”. Tôi nhớ lại hồi nhỏ, nhỏng nhẻo với mẹ có tiếng, mẹ vừa lấy cán chổi lông gà phủi sơ sơ ngoài quần, chưa chi đã la còn hơn bị ong bầu đút đít! Bây giờ mãi mê ba con cá thia-thia xanh-xanh đỏ-đỏ, anh Tỷ-Bò “phán” ra câu nào là dạ răng rắc, xem còn hơn câu kinh nhật tụng, tuân theo răm rắp, không dám cãi nửa lời! (Nay mẹ đã mất, cha cũng đã mất, con nhớ lại ăn năn không nghe cha mẹ bằng nghe Tỷ-Bò).

      Tỷ-Bò dạy tôi phải cho có gan, thì tôi làm gan! Tỷ-Bò dạy tôi bậm môi thì tôi cắn môi đến giập máu! Anh dạy tôi túm, vo ống quần cho sát bẹn sát háng, tôi làm coi cũng gọn bâng; bây giờ tôi viết bài nầy, nhớ lại việc cách trên năm mươi năm, tôi mới hiểu và thương mẹ tôi, mỗi lần lấy áo quần ra giặt, đăm-đăm muốn biết sao “đứa con ăn cá, mẹ lừa xương” y-phục lại bèo-nhèo đến thế! (Mẹ! Mẹ ôi! giá-thử con cũng nghe huấn-từ của cha mẹ bằng như con đã nghe lời anh Tỷ-Bò!)

      Tâm trí của tôi lúc đi hớt cá, không lo đỉa chun hậu môn, – thú thật tuổi ấy tôi cũng chưa biết đó là một tai nạn lớn và sẽ làm khổ cho cha mẹ đến bực nào, – tâm trí tôi mảng lo và chăm chú ngó theo bờ mẫu, ngó dài mặt nước bọc theo lức, đế, ô-rô, rau dừa. Chỗ nào có bọt nổi trắng-trắng hay vàng-vàng (trắng khi nào ruộng toàn nước mưa, vàng khi nào nước có lộn chất phèn chất sắt do dưới đất hoà lên, hay có lá mục…): bọt ấy là bọt cá thia-thia, rõ đích-thị hắn đây rồi! Con mắt thông thạo của Tỷ-Bò, dòm thoáng qua là biết ngay, không do dự môt giây một khắc! Đối với tôi thì cóc cần, bọt gì cũng mặc! Khi ấy hãy đưa rổ vào cho lẹ, vừa đẩy rổ tới trước vừa thọc sâu xuống và cũng vừa hứng lần lên, ba việc: đưa đẩy, thọc sâu, hứng lên, phải làm nhanh lẹ vén khéo, cùng khi ấy hai chơn lại phải giậm-giậm thật đều, thật kỹ giáp vòng chỗ mình đang đứng, cốt làm sao cho con cá, dẫu muốn thoát thân ra bụi bậm thì cũng vì “địa-võng” của mình bố trí quá khít khao, và nhờ sự “tấn công ba mặt” của mình quá chặt chẽ, đành vô phương thối bộ và đành rút lui về bọt, mặc tình bắt tha! Mỗi lần nâng rổ lên, nếu khéo tay và thông thạo thì gặp bọt chín mười lần, làm sao cũng phải hớt được vài ba con cá.

      Cá giãy lách chách trong lòng rổ mà lòng mình cũng rung lên thình thịch, còn sung sướng hơn đánh bài tứ-sắc “tới quan”! Nhưng cũng khoan vội mừng sớm và hãy đợi cho cá lọt vào chai đem theo, xem đi xem lại kỹ càng rồi sẽ mừng không vội. Nếu hắn là con cá trống thì mặc sức mừng vui! Bất ngờ hớt trúng con cá thia-thia mái, thì nên phóng sanh phứt cho rảnh nợ đời, hoặc giả bắt được thứ cá sọc dưa, cá bã-trầu thì mừng hụt một phen và cũng nên mở nút chai trút ngược cá xuống ruộng mà làm doan làm phước cho nó nhờ! Để thì giờ xúc con cá khác còn hay hơn!

      Cá bã-trầu, mình dẹp, vảy xanh lè, coi tốt mã ghê, thoáng qua tưởng mình thộp được con cá xiêm, mừng quýnh, không dè đó là thứ cá bã-trầu, đồ vô dụng, được nhiều kho mẻ tô thì đã tanh thêm xương nhiều thịt ít, ăn không ngon, bằng để nuôi chơi trong chai trong keo, thì chỉ phá đám, tốn công nuôi, cá bã-trầu trững giỡn cũng không biết đừng nói chi đá độ: bã-trầu chỉ giỏi tài nuốt cung quăng, vì kính trọng Ba tôi lắm, nên chuyền tay đem về Sốc-trăng, Ba tôi quí hơn vàng: con cá nầy nước lội xem đủ oai, thêm miệng quai xách, mắt thụt (không sợ cá khắc cắn nhằm), vảy đều đều óng ánh như lửa sáng, kỳ trên thật nhọn như cây bút lông chấm son dựng đứng, kỳ dưới đỏ chói khi xếp như lá cờ lịnh, khi xoè tươi như cờ hiệu nhà Vương!

      Thằn-lằn quen mửng cũ, tôi giết đã nhiều, thế mà hắn còn đây, hay thật! (Chuyến nầy chết m. mày rồi!) Thằn-lằn quen mửng cũ, thấy nắp keo đậy không kín thì ăn quen, mon men toan độn nhập vào trong, định bề bắt cá tươi “xực” (thực) như kỳ trước! Tôi ngồi chỗ bộ ván, thấy con thằn-lằn ngán giùm cho cá, nó vóc to và mập, trắng đỏ như “thằng Lê-dương” năm ấy: có lẽ sức mạnh nó không vừa: nếu khoẻ như “lính đầu đỏ” và tinh anh có thừa, thì chu cha, ghê quá, không biết con xiêm bự của mình làm lại nó không? Khi ấy, tôi ngưng làm bài học, và định trong trí sẽ can thiệp cứu cá cho kịp thời. Thằn-lằn, vốn tánh dè dặt sẵn, (ba mươi đời quân gian thường kỹ càng, nên càng thêm lợi hại), thằn-lằn làm như “Lê-Huê khán trận”, ngó trước xem sau, (hát ba câu Nam rồi!) thì bò lần đút đầu vào miệng keo, không khác hùm dữ vào chuồng trâu…

      Đàng nầy tôi ngồi mà nôn quýnh, không dám nhúc nhích cục kịch, gần như nín thở, hờm sẵn chờ dịp sẽ tiếp cứu và ám trợ con cá câng.

      Thằn-lằn bò nhẹ nhẹ như tên du-kích lành nghề, mắt lườm lườm ngó riết con cá đang ở dưới đáy keo, thong thả xê xích từ phân từ ly, rình xem nhứt cử nhứt động của con vật sắp làm mồi ngon cho mình. Tôi nín thở, phập phồng lo sợ cho cá. Bỗng thằn-lằn quay đầu trở lên, lú chót mũi khỏi miệng keo, bốn chân hít cứng vào cổ keo thủ thế như thầy nghề võ, cặp mắt ngoáy trở xuống liếc theo từng mỗi hành động con thủy vật. Nắm được thế thủ vững chắc rồi, thằn-lằn bèn ra miếng độc. Nó thò đuôi rà mặt nước, lay động nhẹ nhẹ giả như chót đuôi là con quăng đang trở mình biến hình con muỗi, hoặc như con ruồi sa cơ vừa té xuống nước, đang giãy tử, chi vậy? – Xin thưa: ấy là kế dụ địch của thằn-lằn, để nhử thia-thia hờ cơ sẽ ra tay. Nếu khi ấy thia-thia không khéo đề phòng, trồi lên đớp nước, hoặc ơ hờ hoặc vô tình tưởng chừng chót đuôi kia là quăng, là muỗi, trân mình định táp, khi cá vừa tằm đòn thì thằn-lằn, lẹ như chớp, sẽ phóng mình xuống mặt nước và dùng đầu làm củ chuỳ đập mạnh vào đầu cá. Người có biệt tài, khéo ở chỗ đúc mà khi cáp cá, người ta không biết cá mình là cá lai, hoặc thấy “lai phảng phất” chút ít, kể như cá hồ, nên chịu độ, đến khi thả vô keo đá mới thấy lai rõ rệt, mà phép “thả cá vô keo” rồi thì kể chịu độ, phải để đá đến ăn thua, chớ không bắt ra được. Phép đúc cá, phải làm sao cho người ta biết cá mình không phải cá lai xiêm, thì mới dễ kiếm độ; chớ ở trường, khi cáp cá ngoài thố nhỏ, khi thấy cá lai rõ rệt thì ít ai khứng đá với mình, cũng có khi họ thấy lai mà dám đá là khi nào họ từng thấy trong bầy cá lai của người đó đã đá trước một hai con mà không dữ, hình thể cá đã xấu hoặc hư rồi, hoặc “cá lai non” nên họ không sợ. Cũng vì lầm tưởng như vậy, nên đã có người “tương kế tựu kế”, đúc và nuôi đến hai bầy: khác nhau ở chỗ mẹ cha khác giống, nhưng giống nhau ở chỗ cùng màu, cùng sắc, để dễ gạt lớp người thực thà, tuần nầy họ đem cá dở ra đá, rồi tuần sau họ mang cá hay đến gỡ độ, đá lớn hơn, những ai quá tham không kịp xét nét, sẽ thua họ mà không ngờ đã lầm kế độc “ly miêu hoán chúa”!

      Phàm cá cũng như gà, “gan ruột” giống mẹ. Muốn đổ, phải lựa chọn cá mái cho thật dữ, nghĩa là mái lựa mái xiêm rặc hoặc lai một hai đời tuỳ ý, nhưng “cá trống” phần nhiều lựa “trống Rạch” (Rạch-Giá), “trống cỏ”, “trống hồ” đã từng ăn độ “anh hùng”, và lựa từ nết đá, nét chịu đòn, đến hình thể, v.v… Các tay chơi chưa lão luyện, ai ai lúc đổ cá, cũng ham cá sau nầy sẽ giỏi chịu đòn, cắn dữ, biết đánh “đòn hồi-mã-thương”, biết “chơi cú-đờ-tết”, tức biết quày mình dùng đầu đánh trái lại đầu con cá kia chưa đề phòng, biết đòn “câu nước hàm trên”, “câu nước hàm dưới”, tức cắn ngay hàm (trên hay dưới) của con cá nọ, ngậm chắc và trì xác con nọ xuống tận đáy, vừa lấy thế đó mà nghỉ mệt, xả hơi, vừa thi tài “giỏi nín hơi”, con nào không quen, không đủ sức chịu đựng, nín hơi lâu không nổi, sẽ giựt hàm chịu thua và chạy luôn có cờ! Nhưng những nhà lão luyện, kinh nghiệm có thừa, lại thích đúc cá thật bén, cắn dữ bội phần, để con cá kia bị cắn, bị đòn, rát quá thì chạy ngay; chớ những miếng “hồi-mã-thương”, “đâu hàm”, “bỏ chạy dụ địch” đều có chút phần nguy hiểm vì trong khi “chạy dụ địch” nếu có một bóng lạ, một tiếng động thình lình, cá chạy luôn cũng chưa biết chừng, nguy hiểm là vì vậy, nên họ không thích lắm.

      Khỏi nói, về cá mái, cá để giống luôn luôn là cá lựa “gắt củ kiệu”, không chỗ chê, và trứng phải thật già. Trứng chưa già, ép ra thì cá non hao nhiều, mớ nào sống cũng không bền, không khác người ta đẻ thiếu tháng. Trong lúc mái còn non trứng, phải để cặp bên cá trống, mỗi ngày, cho ăn đầy đủ và mỗi bữa cho đá bóng cho cá sung sức, trứng mau già. Khi nào thấy con mái lội, đầu chìm xuống, khúc đuôi chổng vổng lên, bụng no tròn, ở hai bên hông “sọc dưa” vàng đen rõ rệt và một trứng lòi ra dưới bụng, ấy là trứng đã già, cá đã đúng lứa ép, không nên để lâu nữa. Trứng già mà không cho trống ép thì con mái cũng chết. Đây chỉ là một mánh khóe nhỏ, còn ngón gian trong trường cá không sao tả xiết, người thức thời và biết khôn, duy đừng mó tay vào nghề chơi cá và đá cá mới khỏi bị thua trí thua tiền.

      THỂ LỆ ĐÁ CÁ

      Theo phép chơi cá, tuy không có trường dạy luật lệ, nhưng theo thói quen thành tục, lấy đó làm chuẩn thằng, thì chịu đá hay không là khi nào cá của mình còn ngoài thố cáp, chưa thả vào “keo trường”. Cá còn ngoài thố, thì mình là chủ cá, có trọn quyền chạy, không đá, hay là ưng thuận, cho hai con đá nhau. Một khi cá thả vô “keo trường” thì như ván đóng đinh, phải để cho hai con đá đến ăn thua, chớ không bên nào được bắt cá ra, dẫu bên đối phương cá là cá lai “rặt” hay “lai mấy đời” cũng phải cắn răng mà chịu. Vì vậy khi cáp cá, phải cẩn thận từ ly từ phân, phải luyện cặp mắt biết “cá lai”, “cá Rạch” từ trong thố, chớ đừng đợi thả cá vô keo, kêu Trời vô ích!

      Điều lệ khác cần biết là khi thả cá vô keo, khởi sự ăn thua là khi nào hai con đều cắn nhau “miếng vay miếng trả”, mỗi con cắn một miếng là bắt đầu “thành độ”. Nếu thả vô keo, hai con phùng xòe, con A cắn con B, B chưa cắn miếng nào, thoạt A bỏ chạy, thì độ cá kể “huề”, vì B chưa cắn, chưa thành độ.

      Đây là thể lệ chánh, ở đâu cũng vậy, còn những chi tiết nhỏ nhặt khác thì sẵn chủ trường vừa là “cố vấn” vừa là quan Toà, sẽ giải quyết tuỳ sự thông cảm của đôi bên. Một điều nên nói nữa là chủ trường, ở tại trường cá, lịnh và quyền, lớn hơn ông Cò tại Bót Cảnh-sát; và ở trường cá không có luật “chống án”!

      MỘT ĐỘ CÁ ĐIỂN HÌNH

      Lúc nãy, tôi có nói về những mánh khóe gian lận của bọn đá cá chạy gạo, chuyên gạt lớp, phỉnh phờ, đến em cháu cũng không buông tha. Nói thì nói vậy, chớ thỉnh thoảng ông Tổ nghề đá cá cũng sửa lưng đồ đệ một cách bất ngờ cho chúng nó bớt khinh lờn oai Tổ! Lối năm 1938, tôi còn tùng sự tại tỉnh nhà Sốc-trăng để dễ bề thần tỉnh mộ khan. Ở xứ đá cá nên tật cũ khó chừa, chúa nhựt nào cũng có mặt tôi tại trường, mà trường cá vốn không xa lạ, vì chủ là anh Nguyễn Trinh-T., mặc dầu nay gương vỡ, chớ chức “anh vợ trước” không mất! Một buổi gần trưa chúa nhựt, tôi xách nả tre có đựng mươi cái thố sành, mỗi thố là một con cá chiến. Từ sáng sớm họ đã đá xong vài ba độ, trường đang nóng tiết, kẻ ăn cười người thua, luồng điện bắt đầu muốn xẹt lửa. Chú Bảy Minh đem cá từ Bãi-Xàu qua cáp độ. Khiến cá tôi gặp cá chú. Lúc còn trong thố, rõ ràng cá tôi lấn cá chú, một mười một tám. Đôi bên bằng lòng ưng đá, tiền độ là năm chục bạc, phần tôi “bao” phân nửa, hai mươi lăm đồng, còn lại chia kẻ năm người ba cho vui. Bên chú Bảy, chú bao sổ, chú muốn “ăn một mình trọn gói”, không cho bọn thua từ sớm “ké vào chút ít” gọi là gỡ gạc vớt vát ít nhiều.

      Bởi họ thiện nghệ nên họ khôn hơn mình! Lúc nãy, cá còn trong thố, họ dùng lông gà nhận chìm con cá họ xuống sát đáy, lại thêm lấy lông gà quét túm vi kỳ con cá, nên mình thấy nhỏ xíu! Bây giờ được thả vào keo rộng, cá nở nang bành trướng đúng sức nên to gấp hai ban nãy! Thôi rồi! cái thua nắm chắc về phần mình rồi! Tôi ngồi đó mà chỉ trông mau dứt độ để về nhà sớm sớm, tránh những cặp mắt ngạo nghễ của bọn hàng sáo khó chịu. Chú Bảy, không nói gì, chỉ rung rung mấy sợi râu mép “kiểu Char-lot”, thầm hân hoan nhưng còn ngại, nếu cười ra mặt e tôi đổ quạu không chung tiền thì uổng lắm! Nhóm bàng quan nãy giờ thấy cá chú Bảy “kể ăn chắc” nên phóng bắt om xòm. Ban đầu còn kiêng dè, họ phóng mười đồng ăn bảy. Về sau bất kể, họ quăng ăn năm, ăn tư, nghe mà thêm tức giận. Riêng tôi, tôi ói gan, nhưng đã bước vào nghề, phải học chữ “nhẫn”, nên cắn răng mà chịu. Duy, nói chí đáng, mấy người đá theo phe tôi, một là nóng ruột sắp mất tiền oan uổng, hai là thấy tôi mắc mớp nên bên vực, bọn đồng sổ chưởi thề liền miệng, nào “đá không ngay thật”, nào “ăn gian sẽ thua mạt có ngày”!

      Trong keo, hai con cá đã “trao đổi găng tay”, cắn nhau mỗi con một miếng cắn: thế là bắt đầu ăn thua thực sự. Cá của tôi vẫn quạt đuôi, phùng xoè, lo lội, lo tìm chỗ nhược mà hạ thủ. Cũng trong lúc ấy, ngờ đâu cá chú Bảy lại không lo nghinh chiến; để liến thoắng, đảo bên nầy rồi đảo bên kia, lội tung tăng theo cá tôi, hết lội sau rồi bọc ra trước mặt, giương kỳ, xòe đuôi, khoe mã, giáp. Bỗng lẹ như chớp nhoáng: con cá của tôi, thừa lúc cá chú Bảy uốn mình trước mặt khoe bộ vảy óng ánh như sao, nó bỗng phóng hết mình tới trước, cắn một miếng thật mạnh vào bụng bở, mạnh cho đến đỗi bọt nước văng tung tóe và nghe rõ ràng một tiếng “bóc” rung rinh mặt nước hồi lâu. Rồi một sự bất ngờ diễn ra mau như điện chớp. Cá chú Bảy bị một vố đau quá, giựt mình chạy khan, xếp đuôi cuốn giáp, hát bài “tẩu mã” luôn, không còn gan dạ nào trở đầu nghinh chiến! Mà có gì lạ đâu: chẳng qua từ khi thả chung vào keo, cá chú Bảy thấy cá tôi sặt rằn, trên mình có vằn có vện, lầm tưởng đó là “cá mái” nên sẵn lòng trổ ngón ba mươi lăm! Bất thần nay bị cắn mạnh “như trời đánh, búa bổ” bèn kinh tâm tán đởm, ù chạy luôn, quên chuyện đấu tranh!

      Từ bại trước mắt, chuyển ra thắng một cách bất ngờ, tôi thò vợt múc cá ra, chìa tay lãnh hai mươi lăm đồng bạc ngon lành, trong khi chú Bảy, bây giờ mới nhìn bà con, lằm bằm: “Đồng tiền của ông cháu lớn quá! Tự hậu, tôi không dám đương đầu với ông nữa! Ai coi! cá tôi lớn mười, đá với cá ông không bằng phân nửa của nó; tiền kể như bỏ túi, tội gì cá lớn trổ tật, trững mái làm chi hại tôi thua vô cớ vô căn! Hoặc tôi hết thời nên Tổ trác? Hoặc ông cháu có thần tài giữ của chi đây? Thật báo tôi quá, và tự hậu tôi không đá với ông nữa đâu!”

      Thật vậy! Chú Bảy từ ấy không hề cáp đá với tôi, mà tôi cũng giải nghệ từ đây vì biết rõ trong trường đấu kê đá cá, ngu ngơ như tôi làm vầy mà không sớm rút lui thì chỉ đưa đầu gối cho chúng đột !

      CÓ MẤY THỨ CÁ ĐỂ NUÔI CHƠI?

      Nay xin kể theo chỗ tôi biết, một vài thứ cá thường thấy:

      1) Cá thia-thia cỏ, ao, hồ: tuỳ tên đồng nội, tên địa phương mà gọi, như tại Sốc-trăng, có cá đồng Lọ-Nghẹ, đồng Hàng Tràm, giồng Lình-kía (Long-tử cang), v.v…

      2) Cá nước, cá Rạch (ở Rạch Giá, rừng U Minh). – Như đã nói, cá loại nầy hay lắm, răng bén, cắn dữ, giỏi chịu đòn, không chạy bậy, trừ phi “hết mùa cá xuống nước”. Xiêm lai lơ mơ cũng cự không lại nó. Người đi hớt cam go, lội rừng mấy ngày ròng rã, cá trốn trong bọng dừa nước, chung với rắn, đỉa, trong bưng biền có tiếng là đầy cọp, sấu, thú dữ… Ngày xưa cá đồng hạng tốt, bán một hai cắc bạc mỗi con, thì cá Rạch, gặp mùa hút và cho xổ thử thấy tài trước mắt thì ba đồng bạc mỗi con cá tốt, cũng có người dám mua. Cá nước duy bất tiện một điều là dễ nhìn ra, và chỉ cáp độ với cá nước khác chỗ hớt, còn cá cỏ, cá đồng, không ai dám đá với loại cá nước, cá Rạch nầy.

      3) Cá xiêm rặt, gọi “cá xiêm thiệt” chia ra cá có kỳ và đuôi đỏ lòm, “cá xiêm đỏ”: bền nhưng ít bén; “cá xiêm xanh” thì kỳ và đuôi xanh lè xanh lét, cắn dữ, mạnh, lẹ, nhưng ít bền; “cá xiêm đen” vảy đen huyền, như cục xiên xáo, vừa đẹp, vừa hay, nhưng ít thấy bán; “cá sáp” mình trắng, để chưng chơi, không ai nuôi đá, đủ biết tài nghệ tầm thường nên không ai chuộng.

      4) Cá xiêm lai một đời, còn dữ như thứ thiệt. Thấy dễ biết, vì càng lai thì thân mình con cá càng dài đòn thêm.

      5) Cá xiêm lai biệt dạng, riêng gọi “cá đúc”; người sành nghề dòm qua dễ biết vì cá ta, đuôi, kỳ màu không sáng như cá lai.

      Năm giống cá vừa kể là cá thia-thia đá độ. Đặc biệt nhứt là cá xiêm của các ông hoàng chơi riêng trong hoàng cung. Người dân thường làm gì có được? Cái con tôi nói trong chuyện “thia-thia đại chiến thằn-lằn” vì cỡ lớn quá, không gặp độ nên cũng không biết tài hắn. Lại nữa, lão thủy thủ tặng cho Ba tôi, nói làm vậy, mà đủ tin chăng? Nước Xiêm, nước Cam-Bốt là hai nước tu theo đạo Phật, cấm sát sanh. Thế mà người Xiêm và người Cơ-me thích chơi cá hơn ai hết. Thậm chí, thầy sãi thấy đá cá cũng dừng chơn đứng xem! Có người phàn nàn: “Ông đã tu-hành, sao lại ưa xem sát-phạt? E trái với lòng từ-bi của phật-tử chăng?”

      Trả lời: “Việc tu-hành là khác. Đây là hai con cá nó đá lộn. Tự nó cắn nhau thì tôi coi! Tôi có xúi giục bao giờ mà tội với lỗi ???”.

      Ngoài các giống cá “võ-sĩ”, biết trống mái thư hùng, biết cắn xé giết hại nhau, tranh đấu giữa đồng loại làm trò chơi cho thế gian vui mắt, lại có thứ cá “văn-sĩ”, y mão lượt bượt, xúng xính trong những bộ áo “may trừ hao” nên rộng xùng xình thấy dễ tức cười, tôi muốn nói những cá nuôi trong bể cạn, trong bồn thuỷ-tinh để làm kiểng chưng chơi. Ấy là:

      a) Cá phướn (poisson de paradis) lội dựng đứng đầu trở lên trên, đuôi ở dưới, nên đặt cá bút chì là vì vậy.

      c) Cá giống chiếc là khô (Monochire)…

      e) Cá Taxotes Jaculatores, tức cá sọc dưa, mình giống cá chim, có sọc đen sọc trắng, trông rất đẹp. Người Tàu có tánh hiếu kỳ tuỳ theo màu sắc đặt tên khá ngộ: “Hắc thần-tiên”(hắc xành-xính), Mỹ-châu Bạch thần-tiên (Pạc xành-xính),v.v…

      g) Cá Barbus de Suatra, có hai dải dưới dài giáp đuôi.

      i) Cá Rasbora, sọc dưa sặt rằn theo chiều dài như pyjama màu xanh vàng.

      k) Cá Tétra Déon toàn đen.

      m) Cá Girardinus Guppy, mình xám, mắt và cạnh đuôi điểm đỏ.

      o) Cá mình trong ngần dòm thấu xương

      2) Giống cá vàng y như cá Ông Thọ, nhưng cá nầy có kỳ trên. Thường lội dưới nước tha thướt như công-tử hát bội du xuân! Kim-ngư mắt lồi như mắt cá thòi-lòi là quí nhứt, danh gọi “Đôn-nhãn”.

      3) Một thứ Kim-ngư khác, mắt lồi thêm lật ngửa dòm trời, vì đó tên đặt “long-nhãn ngưỡng thiên”.

      4) Cũng Kim-ngư, nhưng mắt như có bọc nước, lại gọi cá “thuỷ-bao-nhãn”.

      5) Kim-ngư tuyền đen là “hắc mẫu-đơn”.

      6) Cá tuyền trắng, lớn lên vảy chớp như bạc; còn kỳ đuôi cũng trắng phếu, thêm dài lê thê, trông đẹp như “bạch-tỵ công-tử” trong tuồng Tàu hay anh chàng văn-sĩ bạch y bạch mạo.

      7) Kim-ngư nửa vàng nửa trắng là cá dính-dướng.

      8) Kim-ngư nuôi lâu năm, đầu có mọc chóp mao, lúc lội vừa đớp nước vừa phun ra bọt tròn tròn, người Trung-Hoa đặt tên là “sư-tử hý cầu” để câu khách sộp, bán không dưới đôi ba trăm bạc. Đủ cặp giá còn mắc hơn nữa! Nhưng mua về, cá già mau mệt, và khó nuôi. Không vậy người bán cá dưỡng làm chi thứ “sử-tử hý cầu” mỗi lần ăn lăng-quăng còn hơn xe Huê-kỳ hoặc như voi uống nước!

      Trừ những thia-thia nuôi để đá, phải cho ăn lăng-quăng tẩy sạch chất dơ và đếm từ con một, – có độ lượng thì cá không hư sớm, ngoài ra nuôi Kim-ngư và những cá để chưng chơi thì có thể cho ăn thêm với lăng-quăng, chút ít rau cải, như rau muống tươi để nguyên lá, xà lách, ruột bánh mì, bột cho cá ăn, và lăng-quăng hóa-học, đỏ đỏ, bé ly-ty Hoạ sĩ Hoàng Xuân Lợi không biết hình dạng của cá thia thia nên đã vẽ chúng với cái đuôi dài thậm thượt như giống cá Xiêm đuôi dài nuôi làm cảnh phổ biến vào thời đó (mà ngày nay gọi là loại “đuôi voan” tức veiltail). Đuôi cá lia thia đồng ngắn và nhỏ như đuôi cá đá Xiêm.

      Theo tài liệu của người Thái Lan thì các trò đá cá, đá gà là các trò chơi dân dã ở nông thôn. Cá đá được nông dân Thái thuần dưỡng và tuyển chọn qua nhiều thế hệ vì vậy mà những con đá hay nhất thuộc về những nhà lai tạo. Không thấy đề cập đến việc chơi cá đá trong tầng lớp quí tộc ở Thái. Có lẽ người thủy thủ nói quá lên cho con cá thêm phần giá trị.

      Ban đầu, thể loại đá cá lia thia được người ta ưa chuộng bởi vì cá lia thia đá không bền, các trận đấu thường kết thúc rất chóng vánh vì vậy mà làm được nhiều “độ”. Sau người ta tìm cách lai cá lia thia với cá xiêm sao cho bề ngoài càng giống cá lia thia càng tốt (“lai biệt dạng”) nhưng lại đá bền như cá xiêm. Cá này mà đem đá với cá cá lia thia thực sự là nắm chắc phần thắng. Đây là trò lừa đảo tinh vi vì phải lai tạo, nuôi dưỡng và tuyển chọn cá một cách công phu. Một khi ai cũng biết trò này thì việc lai tạo có thể đi đến hai kết cục. Thứ nhất, ở Việt Nam ngày nay không ai đá độ thể loại này nữa (có lẽ vì việc “lai biệt dạng” quá công phu), họ chuyển sang đá cá xiêm để khỏi bị ai lừa. Thứ hai, mọi người chấp nhận đá cá lai một cách công khai như ở miền Đông Bắc Thái Lan ngày nay.

      Nghe nói có người còn luyện cho cá quen với nước muối rồi khi đá thì dụ cho người ta đá trong lọ của mình hay đổ nước từ lọ cá của mình vào lọ đá chung. Cá đối phương không quen với nước muối sẽ bị “xót mình”, mau bỏ chạy. Cách nữa là để đầu rắn độc thúi có giòi, rồi bắt giòi cho cá lia thia của mình ăn ít một cho quen lần. Cá ăn lâu ngày thì răng có ngấm chất độc nhưng nó không sao vì đã quen rồi. Đến khi đem đá mà cắn trúng cá của đối thủ một hồi là con kia giãy chết liền. Cách sau này tuy độc địa nhưng e rằng dễ bị phát hiện.

      Nannostomes là chi cá bút chì Nannostomus.

      Theo Dthong, Tel Matherina Ladigesi có lẽ là cách viết sai của loài Telmatherina ladigesi (tên chính thức hiện nay là Marosatherina ladigesi) còn gọi là cá cầu vồng Indonesia (Celebes rainbowfish), gọi vậy để phân biệt với cá cầu vồng châu Úc. Loài nầy thuộc về một họ cá rất lạ là Telmatherinidae. Ở đây, cụ Vương đã nhầm lẫn khi gọi chúng là macropode, bởi vì macropode chính là cá lia thia hay cá cờ như đã nói ở trên.

      Scalaire tức Pterophyllum scalare, cá ông tiên nước ngọt. Điều ngạc nhiên là cách viết sai (thừa một chữ “i”) cũng khá phổ biến trên mạng.

      Trichogaster là chi cá sặc, ở Việt Nam có ba loài là sặc bướm (Trichogaster trichpoterus), sặc rằn (Trichogaster pectoralis) và sặc điệp (Trichogaster microlepis). Nếu là cá nội địa thì có lẽ Vương tiên sinh đã nhận ra vì hồi nhỏ ông từng đi bắt cá ngoài đồng. Vậy theo chúng tôi, có thể ông đề cập đến các loài ngoại nhập như sặc trân châu (Trichogaster leeri), sặc mật (Trichogaster cheni) hay cá cẩm thạch (và một biến thể khác có màu vàng) vốn là loài cá sặc bướm thuần dưỡng.

      Danio rario là cá ngựa vằn, xuất xứ từ Ấn Độ.

      Mollinésie đoán chừng là Molly, là những loài thuộc chi Poecilia, tức cá bảy màu hay cá khổng tước. Một số cá thể có màu vàng-cam tươi và vây dựng lên như cánh buồm được gọi là khổng tước có diềm hay hoàng kim (sailfin molly). Nếu là loại màu đen tuyền như tác giả mô tả thì chính là cá hắc kim (để phân biệt với hồng kim). Các loài nầy thường bị lai tạp.

      Hemi Grammus có lẽ là cách viết sai của Hemigrammus cũng là một chi cá tetra mà thôi, không rõ Vương tiên sinh nói đến loài nào.

      Cá mà hình thù cá chim, vọc ngũ sắc, mặt vằn vện và rất đắt tiền (vào thời đó) thì có thể là… cá đĩa.

      Đoán chừng là con bo-bo (hay trứng nước, hồng trần cũng là nó).

      --- Bài cũ hơn ---

    • Cách Phân Biệt Dòng Cá Betta Halfmoon
    • Tượng Cá Xiêm Bằng Gỗ Hương Việt – T99
    • Bí Quyết Nuôi Cá Lia Thia Đá (Chọi Chiến, Xiêm Đá) Vô Địch – Kỳ 3
    • Cá Betta (Lia Thia, Xiêm) Ăn Gì Và Các Loại Thức Ăn Cho Cá Betta
    • Cá Betta Ăn Gì? Những Loại Thức Ăn Cho Cá Betta (Xiêm, Chọi, Lia Thia) Khoẻ Mạnh, Lên Màu Đẹp

    Thú Chơi Cá Lia Thia

    --- Bài mới hơn ---

    • Cá Betta Là Cá Gì? Cách Nuôi Và Chăm Sóc Cá Betta Khỏe Mạnh, Lớn Nhanh
    • Làm Sao Để Chăm Sóc Bể Cá Lúc Về Quê Ăn Tết?
    • Top 4 Địa Chỉ Bán Cá Cảnh Đẹp Và Uy Tín Nhất Đà Nẵng
    • Kỹ Thuật Ép Cá Betta Để Đạt Được Số Lượng Cao
    • Vé Máy Bay Giá Rẻ Từ () Đi Xiêm Riệp (Rep)
    • Thia-thia đá bóng trong keo,

      Ham vui trước mặt, quên nghèo sau lưng.

      Ao sâu cá lội khoe màu,

      Đố ai biết mỗ: bã trầu, thia-thia?

      V.H.S

      Thua thì thua mẹ thua cha,

      Cá sinh một lứa, ai mà thua ai!

      (Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, Huỳnh Tịnh Của)

      CÁ THIA-THIA. Chuyện địa phương, chỗ nhau rún nói ra họa may không ai nói gì, chớ tôi rất sợ các ông làm tàn, giỏi nghề ngồi không moi móc.

      Đá cá thia-thia vừa là một thú vui của trẻ thơ, mà cũng vừa của người lớn, những ai có máu me cờ bạc:

      – Bạn nhỏ đá cá chơi, không ăn tiền, cũng không có tiền mà ăn, – cốt tranh nhau giữa nhóm “hỷ mũi chưa sạch”: con cá mày dở vì hớt tại đồng “mấy thằng đánh giặc thua”, không như con cá tao hay lắm, vì gốc nó ở trên Hòa-Hưng, còn phảng phất vong hồn “tụi đánh giặc chống Tây” đời trước!

      – Bọn già thì bất chấp điển tích, họ nghĩ rẻ rề: lấy đó làm nghề sanh nhai, “chạy gạo”, kiếm tiền nhậu nhẹt, hút xách, chơi bời… Đối với họ, mùa hạn, thì chơi gà. Mùa ướt, gà đổ lông, thì day qua đá cá: có thế thôi. Chừng nào cá cũ, thì bắt qua mùa gà. Trái đất cứ xây, người dân Việt quê, chỉ biết gà gà, cá cá…

      Hồi còn mài đũng quần trường tỉnh xứ Sốc-trăng yêu nhớ, một trang một lứa nay còn sống sót ở đất Sài-gòn, đếm số còn thua số răng trên hai hàm lão già bảy chục, (không kể răng do các bác-sĩ nha-y trồng, nhìn không ra), lúc thiếu thời ấy, chúng tôi không gì thích bằng ngày lễ nghỉ xả hơi hay ngày chúa nhựt, sau khi bày vở đâu êm vào đó:

      Rồ-lem (problème) làm rồi, con-bò-té-sông-răng-ke (composition française) vừa làm rồi; chia quẹt-bờ (verbe): rồi mà chưa, để sáng coi lại còn dư chán: anh-đi-xúc-tép-về-rang (indicatif présent) chưa mà rồi, vì dễ ợt, mai sáng chép vô tập còn kịp; bài học thuộc lòng, cũng nhớ làu làu, ngặt nỗi đọc lên như kéc mẹ chớ nhiều câu không hiểu nghĩa, nhưng dám chắc trong lớp cũng bí-lù như mình, tóm lại “đâu êm vào đó”, chừng ấy chúng tôi bèn rủ nhau, mỗi đứa cụ bị một rổ con hay một mủng trẹt, kèm thêm một chai nhỏ, thứ chai dầu thơm “Cô Ba” của mẹ hay chị đựng dầu dừa hay giấm chua, sẽ lén lấy, mượn đỡ hay ăn cắp cũng vậy, đem súc sạch và chứa sẵn nửa phần nước trong, đồ nghề đại khái rổ và chai cặp nách sẵn sàng thì hè nhau kéo ra đồng ruộng chia tay hớt cá.

      Không phải bất cứ đồng nào cũng có cá hay.

      Phải rành đôi chút mới chắc ăn kiểu “ba bó một giạ”.

      Chung quanh thành phố Sốc-trăng, năm ấy (lối 1914 – 1915) tôi biết có:

      1) Đồng Lọ-Nghẹ, ở phía sau trại lính Ma-tà. Gần đám ruộng nầy có nhà thợ rèn ở nhiều, than bụi tro lò đổ xuống nước ruộng, lâu ngày nước đen ngòm: thia-thia đồng nầy có màu đen đúa chắc da chắc thịt như con cháu tướng Uất-Trì đời Đường, vảy da như trui, thoét trong lò nấu đồng thổi sắt, nên đinh ninh cá đồng nầy “mình đồng gan sắt”, răng cứng như thép khóa chắc trong hàm như trong họng kềm: cá đồng nầy không chạy mặt cá đồng nào! Thảm nỗi, đồng ở gần trại lính Ma-tà, mà con cháu Ma-tà dữ quá, hễ chúng nó gặp bọn tôi lén hớt cá đồng Lọ-Nghẹ thì bọn nó đánh chúng tôi chạy bò lê bò càng, không biết đường về.

      2) Đồng hàng tràm, gọi cá chùa Phật, vì nơi đây có chùa thờ đức Di-Đà. Nhờ lá tràm tích-đọng lâu năm, nhuộm nước đỏ au, – lá tràm vả chăng là vị thuốc đón gió ngừa phong, – nên cá vùng nầy mình như tẩm thuốc, bắt được con nào bỏ vô chai, ít giờ sau quen nước quen cái, cá phùng mang sậm màu, vảy xanh ửng hồng, đuôi đỏ chớp sao, chăm bẳm như các tổ-sư Bồ-Đề, hay nói cách khác, như thầy bùa, thầy ngải giỏi nghề “gồng chém không đứt” hay có học “xầng-tả”, xìn tả (thần đả). Năm xưa, nơi đây tôi hớt được một con “cá nái”, lớn bằng ngón tay út, lưu lại nhiều năm quá nên quá cỡ, không cáp độ gặp cá nào bằng nó, tôi để đá bóng chơi và đặt chiến danh là “Ngũ-Lang hòa-thượng”! để nhớ thành tích ông tướng “thầy chùa” trong tuồng “Mộc Quế-Anh dâng cây”. Con cá nái nầy, khi tôi hớt được, bỏ vào chai không lọt, phải gởi qua chai khác, đủ biết nó lớn con đến bực nào!

      3) Một đồng khác là đồng Lình-kía (Long-tử cang), ở phía chùa Phật sau nhà máy Quách Xên. Tuy mang danh đẹp là “cá xóm Rồng con”, nhưng thia-thia đồng nầy không anh hùng chút nào, vì ở xóm chệc rẫy, bủng dứ vì quen tiêu thụ những đồ thừa của bọn nầy gởi trong đám ruộng bên nhà.

      4) Một đồng khác nữa, rất xa xăm đối với cặp giò trẻ thơ của chúng tôi buổi đó, là đồng Bắc-Tà-Ky (tên thổ). Đây là ruộng phụ ấm của ông cậu họ Trần, nguyên con quan Đàng Cựu, xưa kia ngồi trấn xứ Ba-Thắc (srock Passac, tức Sốc-trăng). Cá vùng nầy nổi danh một thuở, bền gan không đâu có nhưng ít ai kiếm được lắm. Chủ ruộng là nhà đá cá lớn, dạy tá-điền canh chừng nghiêm mật, không ai hớt lén được. Đặc sắc trong vùng có thứ cá-kỳ-son, tức kỳ trên lưng có chấm một điển son, đây là giống cá xiêm lai biệt dạng của chủ ruộng đúc nắn lâu đời: cắn quạu, bền gan bực nhứt. Ông Trần, ông cậu của tôi, xưa có một con, ăn trọn mùa, không chạy độ nào, danh còn nhắc: “cá Triệu-Tử”.

      5) Tệ nhứt là cá đồng Thầy Tám, trên đường đi Cần-thơ. Thầy Tám nguyên là pháp-sư, chuyên chữa bịnh bằng phù-chú. Thây ma chết chôn sau am, cá sanh vùng nầy lẹt đẹt không khác những con bịnh đau ma do thầy Tám chữa chạy: chưa đá chưa cắn ai một miếng nào, đã xếp đuôi xếp giáp, chạy cuốn cờ! Nguyên sở ruộng Thầy Tám là cuộc đất gò, nước cạn. Thảo nào cá thiếu nước không nơi dụng võ, ngắn hơi và nhát gan là lẽ cố nhiên. Tôi nói nước ít nên cá nhát gan, vì kinh nghiệm dạy rằng con cá ở nước sâu quen nín hơi, lâu lâu mới lên đớp bóng một lần, nhờ đó mà chịu đựng hay, bền hơn cá ở nước cạn.

      6) Đồng lác, đồng cỏ năn, ở phía sau nhà thương tỉnh, dọc theo đường đi xuống Bang-Long (tục gọi quận Giếng Nước). Cá vùng nầy dở hơi, vì sanh trưởng trong lác, trong năn, trong cỏ, nên không có chi đặc sắc (thuở ấy chưa có anh hùng Rừng Sác, nước mặn). Tuy vậy đừng quen chê sớm mà lầm to có ngày, vì may thời Tổ đãi, hớt được cá kinh niên, thứ cá trốn ẩn lâu năm gần nhà xác, hình như còn oan hồn uổng tử vấn vương, hoặc nữa hớt được những cá lẻ loi sống chung lộn nhiều năm trong bộng trong hang rắn dữ, ngày ngày từng hớp nước có nọc con ác-xà phun ra, cá quen hơi rắn nên không hầy hấng, chực khi đụng độ với cá lạ đồng, thì khác nào con xà-niên ngậm ngải đối chọi với phàm phu, có thể nói bách chiến bách thắng. Tôi đã nói phải là có Tổ đãi mới bắt được thứ cá dữ nầy. Khoan vội tin lời tôi, ham thọc tay vào hang rắn, có ngày bỏ mạng!

      Về việc nầy, tôi đã từng ngộ trận, một phen tởn tới già, nay nhắc lại nghe chơi mà còn rởn tóc gáy: Bữa ấy, trời mưa rỉ rả, tại đồng Hàng Tràm, mặt trời vừa xế bóng, tôi đặt rổ xuống nước, vừa lấy chơn giậm giậm xung quanh rổ rồi rút rổ lên, nghe như được một vật gì nặng nặng. Rổ lên vừa khỏi mặt nước. Mẹ cha ôi! Một con rắn hổ lên nước đen mun, nằm khoanh tròn chật rổ. Khỏi nói, tôi vừa thấy rắn, ba hồn bảy vía lên mây, lẹ như chớp, tôi quăng rổ té bật ngửa ra sau, không kể áo quần ướt vấy, mặt cắt không còn chút máu. Úy hà! Chút xíu nữa, không còn sống mà viết bài nầy! Quên nói, rắn ta cũng hoảng hồn hoảng vía (nếu thật rắn cũng có hồn), rắn đánh cái “tỏm”, buông mình xuống nước, phăn phăn lủi bụi trốn theo đường, rắn cút mất tự thuở nào!

      Các anh em bạn theo tôi bữa đó đều chạy té đùn cục trong ruộng sình, báo hại thia-thia huyền bí đâu chẳng thấy, duy thấy một phen vỡ mật hú hồn.

      Một lần khác cũng tại đồng Hàng Tràm nầy, tôi lại bị trâu dữ rượt, chạy bò càng, ve thúng quăng mất, may sao còn giữ được hồn. Con trâu nầy tôi nhớ rõ, sừng của nó, không biết vì sao không dựng quớt lên mà vẫn nằm lòng thòng hai bên đầu, có lẽ nếu nó húc cũng không hại gì lắm, nhưng nói giỏi, sao hồi đó không ở lại mà thử sức với nó! Tởn đi một dạo rồi chứng nào tật nấy, tôi cũng mon men ra đồng xúc cá, vì thuở ấy, thú thật, chúng tôi tiền bạc đến một đồng một chữ cũng chẳng có dính lưng, cho nên chỉ biết những thú vui không tốn tiền; mà theo tôi còn vui nào bằng ngày chúa nhựt đi hớt cá thia-thia, để được nhăm nhi củ kiệu chua nhai nghe giòn rụm, bây giờ nhắc lại còn chảy nước miếng!

      Độ xưa, một nhà chơi cá ở chợ Sốc-trăng, có một con cá kỳ quặc, ông ta lượm nó ngoài đồng, ở sẵn trong một bình vôi sành mẻ miệng, bỏ gần bên gò mả loạn. Ông rinh luôn như vậy đem về nuôi, để y con cá ấy trong bình vôi của nó quen ở, trừ khi nào xách ra trường cáp độ, khi ấy ông mới vớt nó ra đọi ra thố đường hoàng. Con cá nầy có thể nói là lạ lắm, vì thắng không biết bao nhiêu độ, về sau không ai dám đem cá đối thủ với bất cứ cá nào của chủ nó, báo hại ông ta vì một con cá linh, thắng độ hoài, mà chủ không tiền hút! Tôi sau nầy, vì đi học trường lớn, cũng mất tích con cá ở bình vôi gò mả hoang nầy.

      XÚC, BẮT, HỚT CÁ THIA-THIA

      Muốn có được cá để chơi, phải có chút ít kinh nghiệm. Kinh nghiệm nầy không có trường nào chuyên môn dạy. Thuở đó, dẫu là con ông Thông đứng bàn ông Chánh, hay con Thầy ký Kho bạc, muốn có cá chơi, phải lén cha lén mẹ, phải lo lót xin thọ giáo với các tay rành nghề, mà không ai khác hơn là bọn bộ hạ dưới tay cha mẹ chúng, bọn trẻ chăn trâu giữ bò, cắt cỏ ngựa, mục-đồng, bọn ở đợ. Dạy không lấy tiền công tiền Tổ, cao thượng vậy thay. Duy phải chiều lòn, dẹp bỏ bộ tịch “cậu”, dày công tâng hót thì họ mới truyền nghề. Một trang một lứa với tôi năm đó có con ông Huyện Kim, con Thầy Thông Tây, toàn là tay “công-tử”, con các người có máu mặt đương thời. Trối kệ, phải xuống nước nhỏ, dẹp chức “Ấm” vào ngăn kéo, tôn họ làm “Sư”, làm “Mồ Tổ”, họ mới đoái hoài. Quên nữa, và phải trốn học, theo họ ra ngoài đồng ruộng, đổi với họ một khúc bánh mì thì họ cho leo lưng bò cỡi thử một chặp, hoặc dâng cho họ “đồng xu mẹ cho để dành ăn bánh”, thì họ cho phép lội xuống ruộng sình, bước lỏm bỏm theo họ mà hớt cá thia-thia hay là bắt ốc! Trốn trường cũng vì muốn biết cỡi bò, bỏ lớp, hoang phế việc học hành, cũng vì ba con cá xanh-xanh đỏ-đỏ! Thầy dạy chúng tôi hớt cá là anh Tỷ-Bò. Anh chăn bò, “giữ bò” từ lên sáu. Cứ mỗi sáng, cho ăn ba miếng cơm nguội no nê, chú đày tớ già bồng Tỷ đặt trên lưng bò, đèo thêm chai nước mưa, và mo cơm vắt…. Ra đồng, trọn ngày hết ngồi đến nằm, Tỷ ở trên lưng thú, nắng mưa phú có cao xanh thương xót, một cái nón rách, một chiếc áo tơi, – con nhà nghèo có ông Trời nuôi, – Tỷ mạnh lành, da đỏ sậm có cần gì hứng gió Long-Hải, tắm nắng Vũng-Tàu? Chiều lùa bò về, chú tớ già ẵm Tỷ xuống cho Tỷ xã hơi, cơm nước, ngủ nghê, ngày ngày y một kiểu như thế cho đến tuổi Tỷ lên xuống lưng bò mình ên được. Mà cái tuổi ấy không xa, mới ngộ chưa, vì cỡi bò được ít lâu, Tỷ đã dạy được con bò cầm bầy tên là “Cành-Tết”, biết nằm xuống, mỗi khi Tỷ cần dùng không muốn ở mãi trên lưng nó: bò nằm rồi, Tỷ bắn lùi như tôm, đít đi trước, chân đụng đất bình yên vô sự, nào cần ai bồng ẵm? Khi lên, Tỷ dạy “Cành-Tết” nằm nữa, Tỷ trèo, – có khó hơn khi xuống một tý, – trèo như kiểu thằn-lằn ôm cột đình, nhưng rồi cũng trèo lên lưng bò được, chớ không sao! Tỷ giấu nhẹm chú tớ già việc nầy, để hưởng tận cảnh: “cực thì có cực, nhưng khổ thì không khổ”. Ai ở đợ ra sao không biết chớ Tỷ không bao giờ bị chủ rầy la, một bầu trời nước bao la, mặc sức nghêu ngao hò hát! Sạm da vì nắng, săn thịt vì mưa, không hề sổ mũi gió máy bậy bạ, không bao giờ biết nhức đầu là gì, lên mười tuổi, Tỷ vỗ ngực xưng “Chúa tể Đồng Trường Đua”, “ngô chánh thị Tỷ-Bò thị giả!!!”

      Không chuyện gì xảy ra ngoài đồng ruộng mà Tỷ-Bò không thạo: gò nào có rùa vàng, rùa nấp ở; hễ thấy dấu cỏ dấu đất ra làm sao là Tỷ biết có con vật ẩn núp dưới bụi đế hay gốc lức, v.v… Vì vậy mà Tỷ-Bò mỗi ngày mỗi lục lạo, lục còn hơn học trò lớp nhứt khuấy rầy quyển tự-vị lúc dịch “version” Tây! Con rắn làm hang như thế nào, và con rắn ấy là loại rắn gì, Tỷ-Bò biết đủ. Tỷ-Bò quả quyết thuốc “không xa”, và thường thường có giống cỏ nào mọc gần miệng hang, thì cỏ ấy là món thuốc thần trừ nọc con độc-xà kia vậy. Tỷ-Bò cam đoan đêm nào trăng sáng là rắn ra trững mỡ, “giỡn trăng”, chầy ngày lăn lộn trững đùa trên đám cỏ, sao sao cũng chảy dãi, nhểu nước miếng thấm cọng cây lá cỏ, tẩm già chất độc, chất nầy nhờ gội sương chan nắng nhiều ngày mà dịu lần, biến nên môn “thuốc ngừa” (kiểu nầy y như kiểu thuốc ngừa do viện Pasteur bào chế!). Tỷ-Bò dốt mà sao nghiệm được việc nầy, lạ thật! Mai sau người nào nếu bị rắn cắn, cứ nhớ tìm hang nó và bứt một mớ cỏ mọc nơi miệng hang, lớp đem về nấu nước uống, lớp nhai cấp kỳ nuốt nước và lấy xác đắp lên chỗ bị cắn, là có cơ thoát khỏi nạn nghèo! (Tỷ-Bò chúc ngôn).

      Nghe làm vậy thì hay làm vậy, chớ tôi chưa dám truyền-bá, đem phương nầy bày vẽ cho ai thí nghiệm bao giờ. Nay viết ra đây cũng không bảo-kê hiệu quả. Tóm lại, chồn đèn, chuột đồng, kỳ-đà, rắn mối, rùa vàng, cá bộng, các con sinh vật ở ruộng, nhứt cử nhứt động là Tỷ-Bò hay biết từ đường đi nước bước. Sau nầy, mặc dầu tôi đỗ bằng Trung-học, “lên mặt” trở về làng, nhưng đối với môn vạn-vật-học và môn địa-dư tỉnh nhà, tôi vẫn như thuở còn bé thơ, thua anh Tỷ-Bò xa lắc! Miền Nam, từ cửa “Vàm Tấn” (Đại-Ngãi) cho đến sông Ông Đốc (Cà-Mau), không một khúc quanh nào mà Tỷ-Bò không biết tên, không một xẻo-co nào mà Tỷ-Bò chưa từng đặt chơn đến đó. Giờ nào nước lớn, nước ròng, nước đứng, Tỷ-Bò thuộc nằm lòng. (Nhờ vậy mà muốn đi đây đi đó, Tỷ-Bò không cần chèo chống. Một lá buồm rách, một cơn gió thuận, một chuyến nước xuôi, Tỷ-Bò thả ghe vô ruộng. Công việc xong xả, Tỷ-Bò chờ con nước, thả ghe về nhà, không tốn công chèo, còn hay hơn đời nay, sắm máy thế chèo mà có khi máy trục trặc, đã tốn tiền thêm mất công linh chờ đợi). (Không nói đến cái nạn mọi việc đều máy móc thay thế, sau nầy tầm vóc, bắp thịt đàn bà Việt sẽ kém thua bây giờ vì còn thể-thao chèo bơi gì nữa đâu?) Nói quá xa đề, nhắc lại đối với Tỷ-Bò, tuy vô học, nhưng con thú nào kêu la làm sao…, chỗ nào đào xuống là bắt được rắn hổ, chỗ nào đốt cỏ già hơi là có rùa mập bò ra, v.v…, tắt lại, địa-lý, địa-dư vùng đồng Ba-Thắc (Sốc-trăng), Tỷ-Bò xem rẻ như thò tay vào túi lấy đồ.

      Hôm nào chúng tôi được theo sau lưng Tỷ-Bò ra đồng, thì hả hê bữa ấy: không cháo rùa cũng rắn xào, lươn um, hoặc cá lóc mập ú bó đất sét nướng trui vào lửa rơm, ăn nội cái “filet” chấm muối hột, “nóng hổi, vừa thổi vừa ăn”, đến nay còn thèm. Chúng tôi hùn tiền sắm gần đủ nồi ơ, chảo, đũa, gởi kỹ miễu “Ông Tà”, đũa rất ít dùng; vì chúng tôi kinh nghiệm ăn “bốc tay” sướng và ngon nhất! Chúng tôi không mê Tỷ-Bò không được! Tỷ-Bò rất khác tôi. Tôi thì, học toi cơm, học thuộc tên tổng tên làng làu như cháo lỏng, đọc như kéc mẹ, tên thảo mộc, tên chất khoáng hay ngũ kim, tôi kể giòn hơn lặt rau rang bắp, thế mà nếu ai hỏi vặn: làng ấy ở đâu, chất ấy biến thể ra gì, tôi sẽ ú ớ như đứa câm ăn ớt: học mà không hành, tôi kém Tỷ-Bò hằng mấy dặm! Biết mà thiếu kinh nghiệm, ra trường đời, tôi chỉ là thằng hủ nho Tây đại chi vô dụng!!!

      Anh Tỷ-Bò dạy tôi phương pháp hớt cá lia thia.

      Anh dặn: “Khi để chơn xuống ruộng sâu, thì phải nhớ không còn là con cưng của cha mẹ tại nhà nữa. Muốn nhỏng nhẻo thì ở nhà. Đến đây, phải biết hòa mình cùng Trời Đất: tập bước cho khéo chân, cá không giựt mình, mới có mà bắt. Lựa gốc rạ, dốc lức mục, giẵm cẳng lên đó thì khỏi sợ sa lầy khỏi uống nước bùn. Dẫu đỉa trâu lớn bằng ngón cái nó đeo bắp vế non, và dẫu đỉa hẹ đỉa mén mỏng như lá lúa bò lúc nhúc, lòng thòng trên bắp chuối, thì trối kệ nó! Dẫu vắt rừng cắn, máu ra ướt đỏ chân, háng, thì cắn răng để vậy! Tập chịu, thét rồi quen! Đó là thường sự! Muốn làm dân ruộng thì phải tập cho quen lần: tập cắn răng nín khóc, đau thế mấy cũng không được la! Rên la không ích gì, và chỉ làm bối rối người lớn, thêm làm cho cá tôm hoảng chui trốn mất, mà lỡ cơ hội tốt. Tập lâu ngày thì hết sợ; rồi thét đi sẽ dạn lần, sẽ thấy vui thú. Cần nhất là miễn sao đừng để đỉa con, vắt mén chui vào hậu môn, vào lỗ chỗ nhược, thì thầy chợ cũng khoanh tay mà Tỷ-Bò cũng vô phương tiếp cứu! Học bao nhiêu đó trước đã, rồi Tỷ sẽ dạy thêm”. Tôi nhớ lại hồi nhỏ, nhỏng nhẻo với mẹ có tiếng, mẹ vừa lấy cán chổi lông gà phủi sơ sơ ngoài quần, chưa chi đã la còn hơn bị ong bầu đút đít! Bây giờ mãi mê ba con cá thia-thia xanh-xanh đỏ-đỏ, anh Tỷ-Bò “phán” ra câu nào là dạ răng rắc, xem còn hơn câu kinh nhật tụng, tuân theo răm rắp, không dám cãi nửa lời! (Nay mẹ đã mất, cha cũng đã mất, con nhớ lại ăn năn không nghe cha mẹ bằng nghe Tỷ-Bò).

      Tỷ-Bò dạy tôi phải cho có gan, thì tôi làm gan! Tỷ-Bò dạy tôi bậm môi thì tôi cắn môi đến giập máu! Anh dạy tôi túm, vo ống quần cho sát bẹn sát háng, tôi làm coi cũng gọn bâng; bây giờ tôi viết bài nầy, nhớ lại việc cách trên năm mươi năm, tôi mới hiểu và thương mẹ tôi, mỗi lần lấy áo quần ra giặt, đăm-đăm muốn biết sao “đứa con ăn cá, mẹ lừa xương” y-phục lại bèo-nhèo đến thế! (Mẹ! Mẹ ôi! giá-thử con cũng nghe huấn-từ của cha mẹ bằng như con đã nghe lời anh Tỷ-Bò!)

      Tâm trí của tôi lúc đi hớt cá, không lo đỉa chun hậu môn, – thú thật tuổi ấy tôi cũng chưa biết đó là một tai nạn lớn và sẽ làm khổ cho cha mẹ đến bực nào, – tâm trí tôi mảng lo và chăm chú ngó theo bờ mẫu, ngó dài mặt nước bọc theo lức, đế, ô-rô, rau dừa. Chỗ nào có bọt nổi trắng-trắng hay vàng-vàng (trắng khi nào ruộng toàn nước mưa, vàng khi nào nước có lộn chất phèn chất sắt do dưới đất hoà lên, hay có lá mục…): bọt ấy là bọt cá thia-thia, rõ đích-thị hắn đây rồi! Con mắt thông thạo của Tỷ-Bò, dòm thoáng qua là biết ngay, không do dự môt giây một khắc! Đối với tôi thì cóc cần, bọt gì cũng mặc! Khi ấy hãy đưa rổ vào cho lẹ, vừa đẩy rổ tới trước vừa thọc sâu xuống và cũng vừa hứng lần lên, ba việc: đưa đẩy, thọc sâu, hứng lên, phải làm nhanh lẹ vén khéo, cùng khi ấy hai chơn lại phải giậm-giậm thật đều, thật kỹ giáp vòng chỗ mình đang đứng, cốt làm sao cho con cá, dẫu muốn thoát thân ra bụi bậm thì cũng vì “địa-võng” của mình bố trí quá khít khao, và nhờ sự “tấn công ba mặt” của mình quá chặt chẽ, đành vô phương thối bộ và đành rút lui về bọt, mặc tình bắt tha! Mỗi lần nâng rổ lên, nếu khéo tay và thông thạo thì gặp bọt chín mười lần, làm sao cũng phải hớt được vài ba con cá.

      Cá giãy lách chách trong lòng rổ mà lòng mình cũng rung lên thình thịch, còn sung sướng hơn đánh bài tứ-sắc “tới quan”! Nhưng cũng khoan vội mừng sớm và hãy đợi cho cá lọt vào chai đem theo, xem đi xem lại kỹ càng rồi sẽ mừng không vội. Nếu hắn là con cá trống thì mặc sức mừng vui! Bất ngờ hớt trúng con cá thia-thia mái, thì nên phóng sanh phứt cho rảnh nợ đời, hoặc giả bắt được thứ cá sọc dưa, cá bã-trầu thì mừng hụt một phen và cũng nên mở nút chai trút ngược cá xuống ruộng mà làm doan làm phước cho nó nhờ! Để thì giờ xúc con cá khác còn hay hơn!

      Cá bã-trầu, mình dẹp, vảy xanh lè, coi tốt mã ghê, thoáng qua tưởng mình thộp được con cá xiêm, mừng quýnh, không dè đó là thứ cá bã-trầu, đồ vô dụng, được nhiều kho mẻ tô thì đã tanh thêm xương nhiều thịt ít, ăn không ngon, bằng để nuôi chơi trong chai trong keo, thì chỉ phá đám, tốn công nuôi, cá bã-trầu trững giỡn cũng không biết đừng nói chi đá độ: bã-trầu chỉ giỏi tài nuốt cung quăng, vì kính trọng Ba tôi lắm, nên chuyền tay đem về Sốc-trăng, Ba tôi quí hơn vàng: con cá nầy nước lội xem đủ oai, thêm miệng quai xách, mắt thụt (không sợ cá khắc cắn nhằm), vảy đều đều óng ánh như lửa sáng, kỳ trên thật nhọn như cây bút lông chấm son dựng đứng, kỳ dưới đỏ chói khi xếp như lá cờ lịnh, khi xoè tươi như cờ hiệu nhà Vương!

      Thằn-lằn quen mửng cũ, tôi giết đã nhiều, thế mà hắn còn đây, hay thật! (Chuyến nầy chết m. mày rồi!) Thằn-lằn quen mửng cũ, thấy nắp keo đậy không kín thì ăn quen, mon men toan độn nhập vào trong, định bề bắt cá tươi “xực” (thực) như kỳ trước! Tôi ngồi chỗ bộ ván, thấy con thằn-lằn ngán giùm cho cá, nó vóc to và mập, trắng đỏ như “thằng Lê-dương” năm ấy: có lẽ sức mạnh nó không vừa: nếu khoẻ như “lính đầu đỏ” và tinh anh có thừa, thì chu cha, ghê quá, không biết con xiêm bự của mình làm lại nó không? Khi ấy, tôi ngưng làm bài học, và định trong trí sẽ can thiệp cứu cá cho kịp thời. Thằn-lằn, vốn tánh dè dặt sẵn, (ba mươi đời quân gian thường kỹ càng, nên càng thêm lợi hại), thằn-lằn làm như “Lê-Huê khán trận”, ngó trước xem sau, (hát ba câu Nam rồi!) thì bò lần đút đầu vào miệng keo, không khác hùm dữ vào chuồng trâu…

      Đàng nầy tôi ngồi mà nôn quýnh, không dám nhúc nhích cục kịch, gần như nín thở, hờm sẵn chờ dịp sẽ tiếp cứu và ám trợ con cá câng.

      Thằn-lằn bò nhẹ nhẹ như tên du-kích lành nghề, mắt lườm lườm ngó riết con cá đang ở dưới đáy keo, thong thả xê xích từ phân từ ly, rình xem nhứt cử nhứt động của con vật sắp làm mồi ngon cho mình. Tôi nín thở, phập phồng lo sợ cho cá. Bỗng thằn-lằn quay đầu trở lên, lú chót mũi khỏi miệng keo, bốn chân hít cứng vào cổ keo thủ thế như thầy nghề võ, cặp mắt ngoáy trở xuống liếc theo từng mỗi hành động con thủy vật. Nắm được thế thủ vững chắc rồi, thằn-lằn bèn ra miếng độc. Nó thò đuôi rà mặt nước, lay động nhẹ nhẹ giả như chót đuôi là con quăng đang trở mình biến hình con muỗi, hoặc như con ruồi sa cơ vừa té xuống nước, đang giãy tử, chi vậy? – Xin thưa: ấy là kế dụ địch của thằn-lằn, để nhử thia-thia hờ cơ sẽ ra tay. Nếu khi ấy thia-thia không khéo đề phòng, trồi lên đớp nước, hoặc ơ hờ hoặc vô tình tưởng chừng chót đuôi kia là quăng, là muỗi, trân mình định táp, khi cá vừa tằm đòn thì thằn-lằn, lẹ như chớp, sẽ phóng mình xuống mặt nước và dùng đầu làm củ chuỳ đập mạnh vào đầu cá. Người có biệt tài, khéo ở chỗ đúc mà khi cáp cá, người ta không biết cá mình là cá lai, hoặc thấy “lai phảng phất” chút ít, kể như cá hồ, nên chịu độ, đến khi thả vô keo đá mới thấy lai rõ rệt, mà phép “thả cá vô keo” rồi thì kể chịu độ, phải để đá đến ăn thua, chớ không bắt ra được. Phép đúc cá, phải làm sao cho người ta biết cá mình không phải cá lai xiêm, thì mới dễ kiếm độ; chớ ở trường, khi cáp cá ngoài thố nhỏ, khi thấy cá lai rõ rệt thì ít ai khứng đá với mình, cũng có khi họ thấy lai mà dám đá là khi nào họ từng thấy trong bầy cá lai của người đó đã đá trước một hai con mà không dữ, hình thể cá đã xấu hoặc hư rồi, hoặc “cá lai non” nên họ không sợ. Cũng vì lầm tưởng như vậy, nên đã có người “tương kế tựu kế”, đúc và nuôi đến hai bầy: khác nhau ở chỗ mẹ cha khác giống, nhưng giống nhau ở chỗ cùng màu, cùng sắc, để dễ gạt lớp người thực thà, tuần nầy họ đem cá dở ra đá, rồi tuần sau họ mang cá hay đến gỡ độ, đá lớn hơn, những ai quá tham không kịp xét nét, sẽ thua họ mà không ngờ đã lầm kế độc “ly miêu hoán chúa”!

      Phàm cá cũng như gà, “gan ruột” giống mẹ. Muốn đổ, phải lựa chọn cá mái cho thật dữ, nghĩa là mái lựa mái xiêm rặc hoặc lai một hai đời tuỳ ý, nhưng “cá trống” phần nhiều lựa “trống Rạch” (Rạch-Giá), “trống cỏ”, “trống hồ” đã từng ăn độ “anh hùng”, và lựa từ nết đá, nét chịu đòn, đến hình thể, v.v… Các tay chơi chưa lão luyện, ai ai lúc đổ cá, cũng ham cá sau nầy sẽ giỏi chịu đòn, cắn dữ, biết đánh “đòn hồi-mã-thương”, biết “chơi cú-đờ-tết”, tức biết quày mình dùng đầu đánh trái lại đầu con cá kia chưa đề phòng, biết đòn “câu nước hàm trên”, “câu nước hàm dưới”, tức cắn ngay hàm (trên hay dưới) của con cá nọ, ngậm chắc và trì xác con nọ xuống tận đáy, vừa lấy thế đó mà nghỉ mệt, xả hơi, vừa thi tài “giỏi nín hơi”, con nào không quen, không đủ sức chịu đựng, nín hơi lâu không nổi, sẽ giựt hàm chịu thua và chạy luôn có cờ! Nhưng những nhà lão luyện, kinh nghiệm có thừa, lại thích đúc cá thật bén, cắn dữ bội phần, để con cá kia bị cắn, bị đòn, rát quá thì chạy ngay; chớ những miếng “hồi-mã-thương”, “đâu hàm”, “bỏ chạy dụ địch” đều có chút phần nguy hiểm vì trong khi “chạy dụ địch” nếu có một bóng lạ, một tiếng động thình lình, cá chạy luôn cũng chưa biết chừng, nguy hiểm là vì vậy, nên họ không thích lắm.

      Khỏi nói, về cá mái, cá để giống luôn luôn là cá lựa “gắt củ kiệu”, không chỗ chê, và trứng phải thật già. Trứng chưa già, ép ra thì cá non hao nhiều, mớ nào sống cũng không bền, không khác người ta đẻ thiếu tháng. Trong lúc mái còn non trứng, phải để cặp bên cá trống, mỗi ngày, cho ăn đầy đủ và mỗi bữa cho đá bóng cho cá sung sức, trứng mau già. Khi nào thấy con mái lội, đầu chìm xuống, khúc đuôi chổng vổng lên, bụng no tròn, ở hai bên hông “sọc dưa” vàng đen rõ rệt và một trứng lòi ra dưới bụng, ấy là trứng đã già, cá đã đúng lứa ép, không nên để lâu nữa. Trứng già mà không cho trống ép thì con mái cũng chết Bài nầy đã đăng rồi kỳ nhứt trong báo Tự-Do, Xuân Canh-Tý (1960). Nay có thêm nhiều chỗ (Ghi chú của tác giả).

      Quăng: larves de moustique. Nay quen gọi là con quăng, con lăng-quăng, không ai nói con “cung-quăng”. Tên nầy chỉ thấy trong tự vị Huình-Tịnh Của và Génibrel. Xưa ắt thấy con gì hình như cây cung mà biết quăng mình tới trước, nên đặt tên làm vậy chăng? Xin hỏi các bực cao-kiến (Ghi chú của tác giả). Theo chỗ tôi biết thì thằn lằn chỉ dùng đuôi để câu và hất con cá ra ngoài rồi ăn thôi chứ không có nhao xuống đớp theo kiểu đó. Đôi khi mất cá cũng chưa chắc vì thằn lằn mà vì cá tự nhảy ra khỏi lọ để “trốn đi”. Tôi bị mất nhiều cá lia thia theo kiểu này rồi mà chính cụ Vương cũng công nhận là đến ngày, đến tháng con cá nó tự tìm cách thoát thân. Có lần đang ép cá giữa chừng thì tôi vớt con cá mái ra. Sau nó xình bụng rồi chết. Không rõ con cá mái cho “đá bóng” hoặc để nuôi lâu mà không ép, trứng già rồi thì bao lâu nó sẽ bị sình bụng mà chết? Việc này cụ thể, thực hư ra sao chưa thấy ai nghiên cứu. “Poisson de paradis” hay “Macropode” là các tên gọi khác nhau của loài Macropodus opercularis (tức cá cờ, cá săn sắt hay… cá lia thia theo cách gọi ở miền Bắc và miền Trung). Theo Dthong, “Monochire” có thể là “Monochir” hay “Monochirus” là những loài cá thuộc họ cá bơn (Soleidae) hay họ cá dẹp (flatfish). Các họ cá này chủ yếu sống ở biển, tuy cũng có một số loài ở nước ngọt nhưng chúng cực kỳ khó nuôi vì chỉ ăn phiêu sinh vật. Tôi không nghĩ là người ta bán chúng một cách đại trà. Căn cứ theo mô tả của cụ Vương thì có lẽ đó là loài Monocirrhus polyacanthus, hình thù trông giống như chiếc lá khô (leaffish) sống ở sông Amazon, Nam Mỹ (thuộc họ Polycentridae); màu sắc chúng cũng phù hợp, đặc biệt phần chót vây hậu môn và vây lưng “trong khe” như mô tả. Loài này rất ít di chuyển và thường lẩn trốn trong các bụi thuỷ sinh. Tuy nhiên chúng là loài ăn mồi sống chẳng hạn như cá nhỏ, chứ không ăn chất thải của những loài khác. Toxotes jaculatores (tên chính thức là Toxotes jaculatrix) là loài cá ngoại nhập, xuất xứ từ Nam Á hay Úc. Loài tương tự mà chúng ta vẫn thấy bán trên thị trường cá cảnh có lẽ là loài cá nội địa Toxotes chatareus, tức cá pháo thủ hay cá mang rỗ. Barbus de Suatra có lẽ là cách viết sai của Barbus de Sumatra, tức cá tứ vân (Barbus tetrazona), xuất xứ từ đảo Sumatra. Rasbora là chi cá lòng tong gồm nhiều loài phân bố ở Đông Nam Á, không rõ Vương tiên sinh đề cập đến loài nào. Theo Dthong, Tetra Déon có lẽ là cách viết sai của Tetra Néon hay neon tetra (Paracheirodon innesi), loài cá thuộc họ Characidae (có người gọi là họ cá hồng nhung). Ngoài ra, còn có một số loài cá neon khác như neon xanh (Paracheirodon simulans) với sọc xanh nổi bật hơn loài neon thông thường, neon đỏ (Paracheirodon axelrodi) với phần thân dưới màu đỏ tươi và neon đen (Hyphessobrycon herbertaxelrodi) với sọc trắng đen. Cá neon trông khá giống với cá cầu vồng ở d) (mà cụ Vương gọi nhầm là macropode) nhưng không có họ hàng gì. Girardinus guppy (hay Girardinus guppii) tức cá bảy màu hay cá khổng tước, tên chính thức hiện nay là Poecilia reticulata. Đoán chừng là cá thủy tinh (hay cá trèn mỏng) Kryptopterus bicirrhis. Bây giờ mọi người đều gọi là cá vàng hay cá ba đuôi. Có vô số loại khác nhau, mô tả của cụ Vương cũng khá rõ ràng nhưng vì không rành nên chẳng dám bàn sâu.[26] Đoán chừng là con bo-bo (hay trứng nước, hồng trần cũng là nó).

      --- Bài cũ hơn ---

    • Lá Bàng Khô Có Lợi Hay Hại Cho Cá Betta Bạn Đã Biết Hết Chưa?
    • Các Loại Cá Cảnh Dễ Sinh Sản, Dễ Nuôi
    • Bệnh Đốm Trắng Ở Cá Betta (Lia Thia, Xiêm) Và Cách Điều Trị
    • Cá Betta Sinh Sản Như Thế Nào ?
    • Chế Biến Thức Ăn Dinh Dưỡng Cho Cá Betta Từ Thịt Bò

    Chuột Hamster Sống Được Bao Lâu?

    --- Bài mới hơn ---

    • Hồ Nuôi Cá Rồng: Những Điều Bạn Cần Biết
    • Môi Trường Khiến Cá Bị Stress Cắn Đuôi
    • Cá Rồng Trân Châu Úc Và Cách Nuôi
    • Dư Lượng Thuốc Trừ Sâu Trong Trà Túi Lọc, Điều Ít Ai Ngờ
    • Tượng Cá Rồng Bằng Đồng Thếp Vàng 9999
    • Chuột Hamster được phát hiện từ năm 1930, khi một nhà động vật học tìm thấy mẹ Hamster và hai chú Hamster nhỏ nhắn tại hoang mạc Syrian (vùng Trung Đông đến phía Bắc của Israel). Sau đó các chú chuột này được các nhà khoa học nhân giống thành công loại Hamster lông vàng (Golden Hamster) tuyệt đẹp. Những chú Hamster đã được ngao du khắp các phòng thí nghiệm trên thế giới. Chúng đến Anh lần đầu tiên vào năm 1931, đến Mỹ vào năm 1938. Đến nay, tuổi đời của chuột Hamster trung bình là từ 1-2 năm, tối đa là 3 năm.

      Chuột Hamster có tuổi thọ bao lâu?

      Trong tuổi đời của Hamster, một số yếu tố sinh lý thú vị mà bạn nên biết. Với đực trưởng thành cân nặng từ 85- 140 gam, con cái từ 95-120 gam. Nhu cầu nước tiêu thụ khoảng 30 ml/ngày với nhịp tim 280- 412 lần /phút và nhịp thở trung bình là 74 (dao động cho phép 33 – 127 lần/ phút).

      Khi sinh sản, độ tuổi Hamster phát dục của khi giao phối đực 6-8 tuần (90 gam); con cái 6-8 tuần ( 90- 100 gam), thời gian động dục con cái là 4 ngày và rụng trứng sau 6- 8 giờ. Chu kỳ động dục cách nhau 15 – 18 ngày. Số lượng con một lần sinh từ 4 đến 12 con.Trọng lượng mỗi bé sơ sinh là 2- 3 gam. Chuột Hamster có thể sinh sản sau 5-6 tuần tuổi.

      Tuổi thọ của chuột Hamster Tuổi đời của chuột Hamster trong giai đoạn sinh sản

      Thời gian mang thai của chúng chỉ 16-22 ngày, tùy thuộc vào từng loại Hamster. Trung bình mỗi lần sinh, Hamster mẹ sẽ cho ra đời số lượng Hamster con là 6-10 con với giống Hamster Bear, từ 5 đến 6 con với loại hamster nhỏ hơn (WW, Campbell, Robo và hamster Trung Quốc). Hamsters có từ 7-11 cặp núm vú. Hamsters con có thể cai sữa lúc được khoảng 3 tuần tuổi. Hamster sẽ kết thúc tuổi sinh sản từ tháng thứ 14.

      Tuy tuổi thọ của chuột Hamster tương đối ngắn. Nhưng bạn cũng đừng lo lắng vì tuổi thọ của chuột Hamster, bởi trong thời gian sống này, Hamster của bạn đã cho ra đời rất nhiều các bé Hamster con rồi.

      Tuổi thọ của chuột Hamster tuy ngắn nhưng đầy thú vị

      Có vẻ như Hamster biết tuổi thọ của mình ngắn nên chúng có vẻ sống một cuộc sống rất đáng sống.

      Tuổi đời thú vị của chuột Hamster

      Hamster thực sự là một kẻ đào tẩu chuyên nghiệp, chúng không chịu ngồi yên một chỗ mà chạy nhảy lung tung. Nên nếu bạn không muốn tìm kiếm Hamster một cách vất vả thì hãy coi chừng chúng đấy.

      Vòng đời thú vị của Hamster

      Thời gian chuột Hamster hoạt động và ở trạng thái tỉnh táo nhất là lúc buổi tối sau khi thức dậy. Lúc này bạn có thể giành thời gian chơi với bé hay có những bài huấn luyện cho bé chuột của mình để bé trở thành những vận động viên chuyên nghiệp. Bởi Hamster có thể thực hiện các kỹ năng chạy vượt chướng ngại vật xuất sắc nếu bạn có nhiều thời gian giành cho chúng.

      Trong tuổi đời của Hamster sự phát triển của chúng là không tưởng. Một số loài như Hamster Bear có thể phát triển rất lớn so với những chiếc ống của lồng nuôi. Vì thế bạn nên tính toán kỹ trước khi trang bị các loại lồng có ống chui để tránh trường hợp bé bear bị kẹt trong đó không ra được.

      Hamster cần phải ngủ sớm mỗi ngày. Một điều rất quan trọng là chúng nên được giữ trong không gian yên tĩnh, tránh tiếng ồn ào.

      Đặc biệt, Hamster cần những đồ chơi, đá mài răng để nhai, tránh cho việc răng mọc quá dài. Các loại hạt có vỏ cứng sẽ là đồ ăn tiện lợi tuyệt vời cho Hamster, chúng vừa có thể mài mòn răng khi gặm vỏ lại có thể thưởng thức nhân ngon tuyệt bên trong. Hơn nữa, vì chúng thích nhai đồ bằng nhựa, nên bạn cần tránh những đồ chơi làm bằng nhựa để khỏi gây hại cho chúng.

      --- Bài cũ hơn ---

    • Chiêm Bao Mơ Thấy Cá Rồng Là Số Mấy? Đánh Con Gì?
    • Cá Rồng Châu Á Và Chuyện Ly Kỳ Báo Trước Hiểm Họa Khiến Giới Siêu Giàu Chi Tiền Tỷ Săn Lùng
    • Dong Riềng Đỏ Và Bài Thuốc Trị Bệnh Mạch Vành Của Người Dao Tây Bắc
    • Cách Đánh Đèn Cho Cá Rồng Khỏe Mạnh, Lên Màu Cực Đẹp
    • Môi Trường Nước Nuôi Cá Rồng Khỏe Mạnh, Lên Màu Đẹp

    Cá Bình Tích Sống Được Bao Lâu

    --- Bài mới hơn ---

    • Cá Lia Thia Ấp Miệng
    • Những Điều Quan Trọng Trong Cách Chọn Cá Lia Thia Đá Tốt
    • Cá Thiên Đường, Lia Thia Đồng Nuôi Trong Hồ Thủy Sinh
    • Thức Ăn Ương Cá Lia Thia
    • Bà Bầu Ăn Hải Sản Như Thế Nào Để Tốt Nhất Cho Thai Nhi?
    • Cá Molly hay còn được giới chơi cá cảnh Việt Nam gọi là cá bình tích, đây là giống cá cảnh có tốc độ sinh sản nhanh, tính cách ôn hòa và thường sinh sống theo bầy đàn. Bên cạnh cá bảy màu thì đây là giống cá cảnh được nhiều người yêu thích, có lẽ vì vậy mà những vấn đề như ” Cá bình tích sống được bao lâu” thu hút được rất nhiều sự quan tâm của công đồng người chơi cá cảnh nước ta. Vậy cá bình tích sống được bao lâu và làm cách nào để cá bình tích sống lâu nhất có thể?

      Cá bình tích sống được bao lâu?

      Là một giống cá có sức sống cực kỳ mạnh mẽ và khả năng thích nghi với môi trường sống khắc nghiệt tốt ( Ngay cả trong môi trường thiếu thốn Oxy) nên cá bình tích hoàn toàn có thể sống một cách khỏe mạnh trong bể nuôi thủy sinh. Tuy nhiên, nếu người nuôi có thể đáp ứng được những tiêu chí sau thì sẽ giúp tuổi thọ trung bình của cá bình tích được kéo dài hơn: Cây thủy sinh, môi trường nước, thức ăn, những loài sống chung trong bể,… Khi sống trong điều kiện tốt nhất, trung bình một chú cá bình tích có thể sống từ 2-4 năm.

      Cách nuôi cá bình tích sống lâu

      • Trong quá trình nuôi cá bình tích, các bạn nên cho thêm một ít muối hột vào trong bể để tiêu diệt một số loại vi khuẩn và mầm bệnh gây hại đang tồn tại trong môi trường sống của cá. Đồng thời việc làm này còn giúp giảm nồng độ Nitrat sản sinh ra do thức ăn dư thừa và chất thải của cá.
      • Thay nước bể cá thường xuyên: Cũng như con người chúng ta, môi trường sống sạch sẽ luôn được xem là yếu tố quan trọng quyết định đến sức khỏe và tuổi thọ. Vì vậy mà nước nuôi cá bình tích cần được thay thường xuyên, ngoài ra bạn cũng nên sử dụng nước giếng bơm vì chúng chứa ít chất tẩy( Nước cần được để ngoài không khí từ 2-3 ngày trước khi cho vào trong bể cá).
      • Bể nuôi: Kích thước bể nuôi cá bình tích phải đảm bảo đủ lớn, bên cạnh đó trong bể nuôi cần đặt thêm các loại cây thủy sinh để đảm bảo sự cân bằng sinh học cho môi trường sống. Mảng xanh bên trong bể không chỉ giúp làm đẹp mà còn giúp loại bỏ lượng Nitrat và tăng cường lượng Oxy có trong nước.
      • Nguồn thức ăn: Cá bình tích được xếp vào nhóm cá ăn tạp, chính vì vậy mà nguồn thức ăn cho chúng cũng không quá khó để tìm kiếm. Các bạn hoàn toàn có thể sử dụng các sản phẩm thức ăn dạng viên dành cho cá cảnh được bán rất nhiều ngoài cửa hàng cá cảnh, tuy nhiên lâu lâu bạn cũng nên đổi khẩu phần ăn của chúng bằng cung quăn, trùng chỉ,…
      • Quá trình sinh sản: Cá bình tích rất dễ nuôi, dễ sinh sản và cũng rất dễ để lai tạo ra đời sau có những đặc tính riêng biệt. Thông thường thì một con cá bình tích mái sau khi mua ở cửa hàng về thì chỉ sau khoảng 2-3 ngày, chúng sẽ bắt đầu sinh sản.

      --- Bài cũ hơn ---

    • Kỹ Thuật Nuôi Cá Chọi
    • Tổng Hợp Toàn Bộ Cách Nuôi Cá Betta Khoẻ Mạnh
    • Cá Betta (Xiêm, Chọi, Lia Thia, Đá) Ăn Gì? Cách Cho Cá Betta Ăn
    • Cá Lia Thia Là Cá Gì Cách Nuôi Chơi Cảnh Như Thế Nào
    • Dặm Cù Bắt Cá Lia Thia

    Thức Ăn Cho Cá Lia Thia

    --- Bài mới hơn ---

    • Bán Cá Lia Thia Cần Thơ
    • Đá Dế, Đá Cá Lia Thia.
    • Kinh Nghiệm Chọn Cá Lia Thia Đẹp
    • Cá Lia Thia Cũng Làm Ổ Để Đẻ Trứng
    • Xúc Cá Lia Thia Thu Tiền Triệu
    • – Bo bo có kích thước tương đương với cá lia thia bột. Mặc dù bo bo mới nở có kích thước chỉ bằng một nửa nhưng chúng lớn rất nhanh. Quan sát trong phòng thí nghiệm của các nhà khoa học phát hiện thấy số lượng bo bo có kích thước nhỏ dưới 0.5 mm là không đáng kể. Mặt khác khi xuất hiện với mật độ cao, chuyển động giật cục của bo bo ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của cá dẫn đến số lượng của chúng bị sụt giảm.

      – Ấu trùng artemia có kích thước thước khá nhỏ, khoảng 0.5 mm, nhưng chúng chỉ sống được khoảng vài giờ trong môi trường nước ngọt.

      Vì vậy trên thực tế, hai loại thức ăn nêu trên không thích hợp để nuôi cá lia thia bột. Bài viết này nhằm giới thiệu hai loại thức ăn đặc biệt nhỏ và thường được sử dụng để nuôi cá con mới nở rất hiệu quả: đó là trùng cỏ (infusoria) và trùn giấm (vinegar eel).

      Trùng cỏ (infusoria) là những sinh vật nguyên sinh hiện diện ở hầu hết các vực nước như ao, hồ, sông và biển. Chúng có kích thước rất nhỏ và là thức ăn vô cùng quan trọng cho cá bột mới nở. Trong ngành chăn nuôi thủy hải sản ở các nước công nghiệp phát triển, người ta thường phân lập và nhân giống đại trà một số loại trùng cỏ như trùng bánh xe (rotifer) và trùng đế giày (paramecium). Những sinh vật này thuộc về một nhóm trùng cỏ quan trọng gọi là mao trùng (ciliates).

      Trùng cỏ có kích thước nhỏ nhất (khoảng dưới 200 micro mét) so với các nguồn thức ăn khác như bo bo, artemia và trùn giấm. Thực ra, bo bo và artemia mới nở cũng rất nhỏ nhưng chúng tăng trưởng rất nhanh và trở nên quá to để cá bột có thể ăn được. Như vậy, trùng cỏ là thức ăn thích hợp nhất đối với những loại cá bột có kích thước nhỏ chẳng hạn như cá lia thia, betta.

      Ngoài tự nhiên, trùng cỏ hiện diện và tập trung nhiều ở ven bờ ao hồ, kênh rạch, cống rãnh và ruộng lúa; chúng thâm nhập vào cả các hòn non bộ và chậu cảnh qua nguồn thực vật thủy sinh hay thức ăn mà chúng ta mang vào đó. Thức ăn của chúng là vi khuẩn, vi tảo và các loại mùn bã hữu cơ lơ lửng trong nước. Đấy là những nguồn “con giống” mà chúng ta có thể tận dụng để “ươm nuôi trùng cỏ tại gia”.

      Có nhiều phương pháp ươm nuôi trùng cỏ, trong loạt bài viết về nguồn gốc của Plakat Thái tác giả Precha đã khuyên nên bỏ một ít rau muống ao vào chậu ép cá và để ở chỗ tối một thời gian, khi cá con ra đời thì nguồn thức ăn trùng cỏ đã sẵn sàng. Bạn sẽ tự hỏi là con giống trùng cỏ ở đâu mà có? Trùng cỏ luôn hiện diện trên bề mặt thực vật thủy sinh (ở đây là rau muống), khi thực vật bị phân hủy bởi vi khuẩn (hiện tượng thối rữa), lượng vi khuẩn sẽ bùng phát và là nguồn thức ăn dồi dào cho trùng cỏ. Trùng cỏ sinh sôi thật nhiều và đến lượt chúng trở thành nguồn thức ăn cho cá bột mới nở.

      Trong bài này tôi xin giới thiệu một phương pháp ươm nuôi trùng cỏ cấp tốc (1-2 ngày) và đơn giản, tôi đã thử nghiệm nuôi cá lia thia mang xanh (Betta imbellis) trong hồ kiếng 1 m x 0.4 m x 0.4 m và không hề thả rong (có nghĩa cá bột phải hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn thức ăn từ bên ngoài cung cấp). Kết quả thu được rất khả quan, sau 2 tuần số lượng bầy cá tăng trưởng và đủ lớn để ăn bo bo xấp xỉ 200 con. Bạn có thể chuẩn bị loại thức ăn này ngay khi cá vừa đẻ trứng chứ không cần phải bắt đầu trước đó cả tuần!

      – Một ly nước lấy ở hòn non bộ, nơi có nhiều rêu xanh. Đây là nguồn trùng cỏ giống.

      – Một nắm lá xà lách xay nát bằng máy xay sinh tố.

      – Một vài viên men cơm rượu. Hầu như bất cứ khu chợ nào ở Việt Nam cũng có bán men cơm rượu, bạn cứ mua ở các cửa hàng tạp hóa (thử hỏi không có cơm rượu làm sao chúng ta có thể “diệt sâu bọ”!) . Men cơm rượu có chứa nhiều vi khuẩn, tôi hy vọng nó sẽ đẩy nhanh quá trình phân hủy lá xà lách. Nếu có nhà khoa học nào khẳng định rằng vi khuẩn lên men cơm rượu không hề có tác dụng thúc đẩy việc phân hủy lá xà lách thì chúng ta sẽ tiết kiệm được 1 ngàn tiền mua men cơm rượu! Dẫu sao, đây chỉ là suy luận của riêng tôi, tôi không dám khẳng định rằng nó thực sự có tác dụng.

      --- Bài cũ hơn ---

    • Cụ Ông 70 Năm Đam Mê Cá Lia Thia
    • Cá Lia Thia Loài Cá Đẹp Mang Nhiều Màu Sắc
    • Cách Nuôi Cá Lia Thia Con
    • Cách Nuôi Cá Lia Thia Và Kỹ Thuật Nuôi Cá Lia Thia
    • Cách Chọn Cá Lia Thia Đá Tốt

    Cá Betta King Sống Được Bao Lâu?

    --- Bài mới hơn ---

    • Đặc Điểm Và Kỹ Thuật Nuôi Cá Chọi, Cá Betta
    • Yêu Cầu Hoàn Cảnh Sống Của Cá Chọi
    • Cách Phân Biệt, Nhận Dạng Cá Betta Dumbo Và Cách Nuôi Betta Dumbo Lên Màu
    • Cách Phân Biệt Cá Chọi
    • Mãng Cầu Xiêm Tân Phú Đông
    • Cá betta có thể sống sót trong bát, nhưng làm hết sức mình trong bể cá nhỏ.

      Cá betta vua là một giống cá betta splendens, còn được gọi là cá đá Xiêm. Là loài cá cảnh nhỏ, chúng điển hình có tuổi thọ ngắn hơn các vật nuôi khác. Tuy nhiên, bạn có thể kéo dài tuổi thọ của cá betta bằng một vài thủ thuật đơn giản.

      Cá betta bao nhiêu tuổi?

      Tuổi thọ của cá betta vua của bạn, giống như bất kỳ loại cá betta nào khác, tùy thuộc vào một số yếu tố. Chăm sóc, cho ăn và di truyền của cá đều có thể ảnh hưởng đến việc cá betta sẽ sống được bao lâu. Với suy nghĩ này, tuổi thọ của cá betta có thể dao động từ hai đến năm năm, tùy thuộc vào mức độ chăm sóc thú cưng của bạn. Hầu hết cá betta sống trung bình từ hai đến ba năm.

      Làm thế nào để biết tuổi cá của bạn

      Cách duy nhất để nói tuổi của cá betta là bằng kích thước của nó, mặc dù, tốt nhất, kích thước chỉ mang đến cho bạn một ý tưởng sơ bộ. Một con cá nhỏ hơn thường nhỏ hơn một con cá già. Điều này thường hoạt động cho đến khi cá betta đạt kích thước trưởng thành (3 inch đối với con đực, 1 1 / 2 inch đối với con cái) khi một tuổi. Cá betta vua sẽ lớn hơn cá betta thông thường, vì vậy hãy ghi nhớ điều này. Bạn muốn có được một con cá nhỏ hơn nếu có thể vì chúng có tuổi thọ ngắn như vậy.

      Kéo dài tuổi thọ cá betta của bạn

      Bạn có thể kéo dài cuộc sống của vua betta của bạn một vài cách. Vệ sinh tốt, giống như giữ bể sạch sẽ, sẽ cải thiện sức khỏe của cá betta vua của bạn. Ngoài ra, giữ chúng trong một cái bát lớn hơn (hoặc thậm chí là một bể cá đầy đủ) thường giúp chúng khỏe mạnh và sống lâu hơn. Thức ăn cũng quan trọng. Cho chúng ăn sống, đông lạnh và đông lạnh thực phẩm như giun máu và tôm ngâm nước muối. Không chỉ cá betta vua của bạn sẽ yêu bạn vì nó, nó cải thiện tuổi thọ và sức khỏe của họ.

      Dấu hiệu lão hóa

      Thật khó để nói lão hóa từ các bệnh khác ảnh hưởng đến cá betta. Đôi khi, bạn chỉ có thể nói cá của bạn đã già bằng cách loại bỏ mọi thứ khác. Các dấu hiệu bao gồm vây kẹp, kích thước lớn và làm mờ màu sắc của nó. Cá của bạn cũng có thể phản ứng chậm hơn với các kích thích. Nếu bạn giữ cá betta vua của bạn với những con cá khác trong một bể cá, nó có thể gặp khó khăn trong việc theo kịp trong thời gian cho ăn.

      Tags: Cá Betta King Sống Được Bao Lâu?

      --- Bài cũ hơn ---

    • Vé Máy Bay Giá Rẻ Từ () Đi Xiêm Riệp (Rep)
    • Kỹ Thuật Ép Cá Betta Để Đạt Được Số Lượng Cao
    • Top 4 Địa Chỉ Bán Cá Cảnh Đẹp Và Uy Tín Nhất Đà Nẵng
    • Làm Sao Để Chăm Sóc Bể Cá Lúc Về Quê Ăn Tết?
    • Cá Betta Là Cá Gì? Cách Nuôi Và Chăm Sóc Cá Betta Khỏe Mạnh, Lớn Nhanh

    Ruốc Cá Hồi Để Được Bao Lâu

    --- Bài mới hơn ---

    • Top Ruốc Cá Hồi Của Nhật Tốt Nhất Hiện Nay 2022 Đang Hot
    • Chà Bông Cá Hồi Ghiền Food Đảm Bảo Đạt Chuẩn Vệ Sinh
    • Tế Bào Gốc Cá Hồi Giá Bao Nhiêu?
    • Tế Bào Gốc Dna Cá Hồi Navacos Salmon Double Effect Ampoule 8Ml
    • Tế Bào Gốc Suiskin 28 Days Hàn Quốc Giá Bao Nhiêu?
    • Ruốc cá hồi chứa Omega 3 là thành phần quan trọng giúp bé phát triển não bộ và trí nhớ

      Cá hồi Nauy tươi là thực phẩm dinh dưỡng, giàu khoáng chất, vitamin đặc biệt là Omega 3. Ngoài các lợi ích mà chất béo Omega 3 này mang lại, cá hồi còn chứa nhiều chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết như Vitamin B12, Vitamin A, B6, D,…cùng các nguyên tố cần thiết khác.

      Để đặt ruốc cá hồi Nauy tươi: Hãy để lại SĐT hoặc gọi ngay 02466863864 – 0898582828 để đặt hàng và được tư vấn nhanh nhất

      Bé mấy tháng tuổi ăn được ruốc cá hồi?

      Trẻ mấy tháng tuổi thì có thể ăn được ? Trong tất cả các thực phẩm cho bé ăn dặm, Để bé tiêu thụ chất dinh dưỡng tốt nhất, các mẹ nên cho bé ăn ruốc cá hồi là hải sản được dùng phổ biến nhất. Mẹ có thể cho bé ăn ruốc cá hồi với cháo từ 6 tháng tuổi khi bé bắt đầu ăn dặm, tuy nhiên để tốt nhất, bé vừa hấp thu được chất dinh dưỡng và không thừa chất, các mẹ nên cho bé ăn ruốc cá hồi vào tháng thứ 7 là tốt nhất. ba bữa/ tuần cách ngày.

      Đặc biệt trong tất cả các loại hải sản thì ruốc cá hồi là sản phẩm dễ ăn và an toàn nhất cho bé. Các mẹ có thể mua cá hồi Nauy, cá hồi Nhật hoặc cá hồi Sapa cho bé. Tuy nhiên đảm bảo và giá cả hợp lý nhất thì mẹ nên mua cá hồi Nauy hãng Salmar cho bé – đây là hãng cá hồi nổi tiếng Châu Âu với chế độ chăn nuôi cá hồi ở vùng biển Đại Tây Dương với quy trình chăm sóc, chế độ ăn cực kỳ đảm bảo vệ sinh và chất lượng.

      Cách làm ruốc cá hồi cho bé

      Cá hồi làm ruốc cực kỳ đơn giản, dễ làm lại không tanh. Ruốc cá hồi vừa thơm ngon lại đủ hàm lượng dinh dưỡng cho bé yêu phát triển và khôn lớn.

      Nguyên liệu làm ruốc cá hồi cho bé – cá hồi Nauy fillet tươi

      Bạn có thể tham khảo cách làm ruốc cá hồi cho bé ăn dặm tai đây:

      Nguyên liệu:

      – Cá hồi Nauy fillet tươi: 300 gram

      – Sữa tươi không đường: 200 ml

      – Gừng tươi: 1 củ nhỏ

    1. Ngâm cá hồi trong sữa tươi không đường giúp làm giảm mùi tanh và giúp khử độc tố trong miếng cá.
    2. Dập gừng thành miếng lát, chà nên mình cá để khử mùi tanh.
    3. Cho cá hồi vào đĩa rồi hấp cách thủy cho tới khi cá chín
    4. Kiểm tra miếng cá còn xương không ( bình thường cá hồi fillet được lọc hết xương )
    5. Cho cá hồi vào cối giã đều để có cá đều, vừa và ngon miệng.
    6. Bật bếp, cho cá hồi đã giã nhỏ lên chảo, thêm 1 chút dầu ăn và chút nhỏ muối, đảo đều
    7. Để ruốc cá hồi nguội hẳn rồi cho vào lọ thủy tinh ( Nên bảo quản trong ngăn đá tủ lạnh mỗi lần dùng xong để cá giữ được chất lượng tốt nhất )

    Khử tanh cá hồi bằng sữa tươi không đường đồng thời giúp loại bỏ độc tố trong cá

    Ruốc cá hồi bảo quản được bao lâu?

    Trên thực tế: Có hơn 60% chị em tự làm ruốc cá hồi ở nhà cho bé, mua nguyên liệu về tự làm. Nhưng nhược điểm là nhiều chị em vẫn chưa xử lý được mùi tanh trong cá hồi khiến bé không chịu ăn. Tuy nhiên nhiều chị em xử lý được mùi tanh , nhưng việc điều chỉnh nhiệt độ cũng rất khó khăn để kiểm soát độ ẩm trong ruốc cá hồi. Nếu thời gian sử dụng cá hồi quá nhanh thì rất khó để dùng sản phẩm trong thời gian dài.

    Ruốc cá hồi giữ nguyên được độ ẩm và hàm lượng dinh dưỡng – bảo quản trong ngăn đá được trong 3 tháng

    Ruốc cá hồi Nauy của Gofood được làm từ 100% cá hồi Nauy tươi hãng Salmar cao cấp. Không chất bảo quản, giữ nguyên hương vị tự nhiên của cá.

    Đô ẩm của cá được giữ nguyên, bạn có thể bảo quản tốt nhất trong ngăn đá tủ lạnh, ruốc cá hồi bảo quản được trong 3 tháng.

    Ruốc cá hồi của Gofood được khử mùi thanh bằng sữa tươi và gừng vì thế không những sạch mùi tanh, cá được loai bỏ hết độc tố khi ngâm cùng sữa tươi không đường. Sau đó được giã và đảo đều với nhiệt độ phù hợp giữu nguyên hàm lượng dinh dưỡng của ruốc mà không hề mất nước như những loại chà bông khác.

    Cháo rau củ ngon lành với ruốc cá hồi cho bé

    Bạn có thể bảo quản trong ngăn đá tủ lạnh mỗi khi dùng xong, đóng chặt nắp và sử dụng. Ruốc cá hồi bổ dưỡng và có thể kết hợp cho nhiều món ăn ngon để bé ăn dặm như: Nấu cháo ruốc cá hồi với rau củ, hay ăn kèm cơm trắng rất ngon và tiện lợi.

    BỎ TÚI NGAY 3 CÁCH KHỬ MÙI CÁ HỒI THÔNG DỤNG NHẤT ĐỊA ĐIỂM “NỔI DANH” VỚI RUỐC CÁ HỒI CAO CẤP NGON KHÓ CƯỠNG

    Hãy gọi ngay hệ thống cửa hàng thực phẩm cao cấp Gofood để đặt hàng và được tư vấn nhanh nhất!

    GOFOOD – PREMIUM FOOD SERVICE

    CS1: 413 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội

    Hotline: 02466 863 8640898 583 838

    CS2: The Butcher Shop: 161 Trung Kính, Cầu Giấy, Hà Nội

    Hotline: 02466 532 2360898 582 828

    Hotline: 0889 307 308 – 02466 701 686

    Gofood Sài Gòn:

    111 đường B Trưng Trắc, Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức, TP HCM

    Hotline: 028 224 55533 – 0906 030 686

    --- Bài cũ hơn ---

  • Lườn Cá Hồi Tươi Ngon Chứa Nhiều Dưỡng Chất Tốt Cho Con Người
  • Lườn Cá Hồi Đông Lạnh Nhập Khẩu Chất Lượng Giá Rẻ Tại Tphcm
  • Kem Dưỡng Cá Hồi Salmon Oil Cream Có Tốt Không? Review Từ Webtretho
  • Kem Dưỡng Da Cá Hồi Salmon Oil Cream Giá Bao Nhiêu?
  • Kem Cá Hồi Salmon Oil Cream Có Tốt Không ? Tác Dụng Gì Cho Làn Da