Cập nhật thông tin chi tiết về Tập Tính Sinh Sản Và Sản Xuất Cá Lóc Bột Cá Lóc Giống mới nhất trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Tập tính sinh sản:Mùa vụ đẻ trứng từ tháng 4 – 7, rộ nhất trung tuần tháng 4 – 5. Cá tròn 1 tuổi, thân dài 20cm nặng 130g đã thành thục đẻ trứng. Số lượng trứng tuỳ theo cơ thể to nhỏ mà thay đổi. Cá nặng 0,5 kg số lượng trứng 8.000 – 10.000 cái, cá nặng 0,25 kg, số lượng trứng 4.000 – 6.000 cái.
a) Ðẻ tự nhiên:
Diện tích ao đẻ từ 190 – 200m 2. Ðáy ao chia làm 2 phần : Phần sâu 1m, phần nông 0,3m. Trong ao nên trồng một ít cây thực vật thuỷ sinh như rong, bèo bờ ao đầm nện chặt và cứ để cho cỏ mọc tự nhiên. Xung quanh ao rào cao 30 – 40cm đề phòng cá phóng ra ngoài. Thức ăn là cá con, lượng cho ăn 25g/con, hằng ngày cho ăn 1 lần, không nên cho ăn quá nhiều phòng cá quá béo. Mỗi m 3 nước thả 1 con đực và 2 – 3 con cái. Những con cá đực thành thục thì thân dưới có màu tím hồng, bụng béo mềm, lỗ sinh dục có màu phấn hồng. Con cái thành thục có bụng to, phần ngực căng tròn vẩy trắng, mồm hơi vàng, lỗ sinh dục to và lồi ra có hình tam giác. ở chỗ có nhiều rong cỏ cá cái dùng cỏ làm ổ, sau đó cá cái và cá đực kéo đến đẻ trứng và thụ tinh ở đây (đẻ trứng vào sáng sớm). Ðẻ xong cả con đực và cái không rời khỏi ổ mà nằm phục dưới đáy bảo vệ trứng cho đến khi nở thành con mới rời ổ và dẫn đàn con đi kiếm ăn, lúc này cũng là lúc mà cá bố mẹ ăn cả thịt những con cá con khác đã tách đàn , cho nên đến mùa sinh sản sáng sớm thăm ao hễ phát hiện thấy có cá con là vớt đem ương sang ao khác.
b) Sinh sản nhân tạo:
Dùng não thuỳ cá chép, cá mè và prolan B để tiêm cho cá. Số lượng thuốc tiêm là 14 não cá mè/kg cá mẹ (1 não cá chép bằng 2,7 – 3 não mè). Tiêm lần thứ nhất 2/5 số lượng, lần thứ 2 tiêm số còn lại. Dùng prolan B thì 1.600 – 2.000 UI/kg cá mẹ, tiêm lần 1 là 1/3 số thuốc, lần 2 : số còn lại. Cá đực tiêm bằng 1/2 cá cái.
Tiêm xong ghép cá cái và đực vào bể đẻ, sau 14 tiếng cá động hớn và đẻ trứng, trứng thụ tinh mới đầu chìm dưới đáy bể sau khi hút nước trương lên nổi lơ lửng trong nước.
Vớt trứng thụ tinh cho vào bình ấp hoặc bể ấp. Dụng cụ ấp trước khi cho ấp phải tiêu độc bằng 0,1 ppm xanhmêtylen, tiêu độc xong lấy nước vào một đầu, đầu kia tháo nước ra giữ mức nước không thay đổi, trong thời gian ấp giữ nhiệt độ nước ít thay đổi, biên độ thay đổi chỉ dưới 2 oC nếu không sẽ ảnh hưởng đến tỉ lệ nở. Nhiệt độ nước 25 oC thời gian ấp nở là 36 tiếng, nhiệt độ 26 – 27 o C thời gian 25 tiếng.
Phương pháp nuôi 2.1 Nuôi cá bột và giống:
Cũng giống như ương nuôi các loài cá bột khác, trước khi thả cá phải tẩy dọn ao sạch, gây nuôi thức ăn tự nhiên sẵn trong ao. Mật độ nuôi 5 – 10 vạn/666m 2, thông thường là 6 – 7 vạn. Trong 7 – 8 ngày đầu chưa cần cho ăn, sau đó vừa cho ăn vừa bón phân, mỗi vạn cá bột cho ăn 3 – 4kg tảo trần, nuôi như vậy 18 – 20 ngày khi toàn thân cá biến thành màu vàng bắt đầu xuất hiện vảy, sau đó biến thành màu đen, thân dài 3 – 6 cm, tỉ lệ sống 60 – 65%. Nuôi tiếp 20 ngày nữa, thân dài 6 cm, lúc này có thể cho ăn cá con, tôm con hoặc thức ăn chế biến giàu đạm. Sau 2 tháng nuôi cá đạt 9 – 12cm, lúc này có thể thả vào ao to để nuôi thành cá thịt.
Minh Dung, Tạp chí khoa học và công nghệ thuỷ sản – 1/2001
1. Là loài cá dữ, phàm ăn, tính ăn rộng: Cá nhỏ ăn : giáp xác, chân chèo, ấu trùng bọ gậy, ấu trùng côn trùng, tôm co n, nòng nọc, các loại cá nhỏ khác. Cá trưởng thành ăn tạp: cá, ếch, nhái, tôm…
Chúng ăn mạnh vào mùa hè, khi nhiệt độ giảm xuống dưới 12 o C cá ngừng kiếm ăn. Cá béo vào trước mùa đẻ, cá ở vùng nước lợ béo hơn ở vùng nước ngọt.
2. Sinh sản: Cá 1 – 2 tuổi bắt đầu đẻ trứng, có thể đẻ 5 lần/năm. Sau khi đẻ, cá mẹ bảo vệ cá con khoảng một tháng rồi tiếp tục đẻ lần khác. Mùa đẻ ở miền Bắc vào tháng 5 – 8, tập trung vào tháng 4 – 5.
Cá đẻ ở nơi yên tĩnh, có nhiều cây cỏ thực vật thủy sinh, đẻ vào sáng sớm, sau mỗi trận mưa rào 1 – 2 ngày. Trước lúc đẻ, cá làm tổ hình tròn, đường kính tổ khoảng 40 – 50 cm. Ở nhiệt độ 20 – 35oC sau ba ngày nở thành con. Trong môi trường tự nhiên, sau 3 ngày cá con tiêu hết noãn hoàng, lớn dài 4 – 5 cm bắt đầu tách khỏi đàn sống độc lập.
3. Sinh trưởng: Cá lớn nhanh vào mùa xuân hè. Cá lóc 1 tuổi dài 19 – 39 cm, nặng 100 – 750 g. Cá hai tuổi thân dài 38 – 45 cm, nặng 600 – 1400 g. Cá ba tuổi dài 45 – 59 cm, nặng 1.200 – 2.000 g. Cá có thể sống trên 10 năm dài 67 – 85 cm, nặng 7000 – 8000 g.
Cá thích ở nơi có rong đuôi chó, cỏ dừa, tóc tiên, vì nơi này chúng dễ ẩn mình để rình mồi. Mùa hè thường sống ở trên tầng mặt, mùa đông khi nhiệt độ dưới 8 o C cá thường xuống sâu hơn, ở nhiệt độ 6 o C cá ít hoạt động.
4. Phân biệt cá đực, cá cái:
– Cá đực: thân dài, thon, đầu to, bụng nhỏ rắn chắc, lỗ sinh dục và lỗ hậu môn riêng biệt.
– Cá cái: thân ngắn, đầu nhỏ, bụng to, mềm sệ xuống, lỗ sinh dục to, lồi gần sát lỗ hậu môn.
Khuyến Ngư Kiên Giang (Theo KS Ngô Trọng Lư)
Căn cứ vào tính ăn của cá lóc có thể nuôi ghép với cá nuôi như cá mè, trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để khống chế mật độ của những loài cá tạp và những cá sinh đẻ nhiều như cá rô phi, cá diếc nhằm đảm bảo thức ăn cho các loài cá kinh tế chủ yếu, cải tạo và nâng cao sức sản xuất các vùng nước. Tuy vậy, khi nuôi, cần tính cẩn trọng chú ý tỉ lệ, mật độ, kích cỡ cá thả.
Trước khi nuôi cá lóc phải dọn tẩy ao sạch sẽ để cho sinh vật phù du phát triển mạnh mới thả cá bột vào ao. Mật độ ương 5-10 vạn con/mẫu. Sau khi thả 7-8 ngày chưa cần cho cá ăn, sau đó một mặt vừa bón phân vào ao, mặt khác vớt động vật phù du bổ sung vào cho cá ăn (3-4 kg động vật phù du cho một vạn cá). Nuôi như vậy 18-20 ngày thấy cá có màu vàng, trên thân xuất hiện vảy, sau đó chuyển sang màu đen, thân dài 3-6cm, tỉ lệ sống khoảng 60-65%, nuôi tiếp 20 ngày nữa cá đạt 6cm, lúc này bắt đầu cho cá ăn tôm, tép, cá con hay thức ăn chế biến có đạm cao. Nuôi trong 2 tháng cá đạt cỡ 9-12cm thành cá giống đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
NTNN, 31/10/2003 & 6/11/2003
Tại khu vực ĐBSCL, kỹ thuật nhân giống cá lóc bằng cách dùng kích thích tố sinh sản đang được nông dân ứng dụng khá rộng rãi. Hiệu quả thu được từ nguồn giống này khá lớn: cứ 100% cá mẹ sinh sản, thu được 70 – 80% cá giống. Qua nghiên cứu cho thấy, yếu tố quyết định thành công là khâu chọn, nuôi vỗ cá bố mẹ và sử dụng kích thích tố đúng liều lượng.
Chọn và nuôi vỗ cá bố mẹ
Nên chọn cá bố mẹ có trọng lượng trung bình 0,3 – 0,8kg trong tự nhiên rồi tiếp tục nuôi vỗ thành thục sinh dục cá trong điều kiện nuôi ở lồng đặt trong ao đất có kích thước 2 x 2,5 x 2m và mật độ thả nuôi là 10 con/m2. Trong thời gian nuôi vỗ, nguồn thức ăn được sử dụng là cá biển và cá tạp nước ngọt, với khẩu phần ăn dao động từ 1,5-2% trọng lượng cá/ngày (2 lần/ngày). Quá trình nuôi vỗ được định kỳ kiểm tra 30 ngày/lần, nhằm xác định độ chín muồi của tuyến sinh dục và sự phát triển về kích thước trứng.
Việc chọn cá bố mẹ thành thục để tham gia vào sinh sản nhân tạo là yếu tố quyết định đến kết quả sản xuất. Nếu chỉ dựa vào các biểu hiện bên ngoài để xác định cá lóc có tuyến sinh dục thành thục tốt hoặc không tốt là rất khó. Vì vậy, khi cho cá đẻ, tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết là cá đực phải có hình dáng thon, đầu nhỏ, lỗ sinh dục cách xa lỗ hậu môn và có màu hơi đỏ. Cá cái phải có bụng to, tròn đều, mềm vừa phải, dùng que thăm trứng thấy trứng có màu vàng tươi, kích thước trứng dao động từ 1,26 – 1,6mm, nhân có xu hướng chuyển cực.
Sử dụng kích thích tố sinh dục
Có thể sử dụng não thuỳ cá chép hoặc sử dụng hormon HHG. Hiệu quả sử dụng của 2 loại kích thích tố này tương đương nhau (100% cá sinh sản, tỉ lệ thụ tinh trên 92%, tỉ lệ nở trên 66%). Sự khác biệt giữa 2 loại này là ở giá cả thị trường và sự tiện lợi trong quá trình sử dụng.
NTNN, 16/6/2003
Thị trường xuất khẩu cá tra, ba sa càng sôi động, chính là động lực thúc đẩy người chăn nuôi đầu tư mạnh, khiến diện tích các ao, hầm và mặt nước sông ở các tỉnh An Giang và Đồng Tháp tăng rất đang kể trong thời gian gần đây. Bên cạnh hai loại cá tra, ba sa, ở ĐBSCL còn có một loại cá có chất lượng thịt rất ngon được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng và hy vọng có ngày được góp mặt với bè bạn năm châu, đó là cá bông. Để giảm tỉ lệ hao hụt trong chăn nuôi và chất lượng thịt ngon đáp ứng yêu cầu thị trường, chọn con giống là khâu quan trọng đối với người nuôi.
Anh Lâm Quang Dũng ở xã Long Khánh huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp, từ đời cha giờ tới đời anh chuyên sống bằng nghề nuôi cá tra bán cho các hộ nuôi cá thịt trong và ngoài tỉnh. Vào giữa thập niên 90 về trước, vào khoảng mùng 5/5 hàng năm, khi nước sông Tiền chuyển từ màu trong xanh sang màu vàng do phù sa thì gia đình anh Dũng chạy ghe lên đầu nguồn sông Tiền, nơi tiếp giáp với biên giới Campuchia để mua cá tra con. Đôi khi phải sang tận Campuchia mới mua được từ những người đặt lưới đáy vớt cá tra con từ dưới sông lên bán. Lúc này con cá không lớn hơn que tăm, nên không thể bắt bằng tay mà phải dùng muỗng để múc.
Cá “lạc hậu” thu nhập không nhỏ
Sau khi mua về thả vô ao, cho ăn, thức ăn của cá lúc này là hột vịt và nước nắm kho tán ra, sau một tuần thì cho ăn ốc xay nhuyễn. Ba tuần sau thức ăn là cá linh trộn với rau muống xay nhuyển bỏ thêm bột gòn để kết dính thức ăn lại không bị rả khi thả xuống nước. Lúc cá được 1,5 tháng tuổi thì bán cho những hộ nuôi cá thịt, lúc này dân trong nghề gọi là “cá lạc hậu”.
Tuy nhiên, do khai thác một cách bừa bãi nên nguồn lợi thuỷ sản này mau chóng cạn kiệt và trở nên khan hiếm. Dần dần cá tra con trên sông Tiền còn quá ít nên không còn ai đặt lưới. Đến năm 1995 thì hầu như không còn tìm thấy nguồn cá tra giống trong tự nhiên. Bấy giờ vấn đề con giống đặt ra buộc người trong nghề phải có biện pháp giải quyết.
Vào năm 1997, người dân nơi đây mới bắt đầu thành công trong việc dùng thuốc kích dục kích thích cho cá tra sinh sản nhân tạo trong hồ, chum, vại. Từ đó mở ra một hướng đi mới cho người dân sáu xã cù lao: Long Khánh, Long Thuận, Phú Thuận… của huyện Hồng Ngự. Đó là nghề “ép cá tra con nhân tạo”. Nhưng riêng gia đình anh Dũng trong thời gian khan hiếm cá tra giống đã chuyển sang nuôi một loại cá giống là cá bông con.
Cuối những năm 90, anh Dũng đã tìm kiếm học hỏi và đã thành công trong việc ép cá bông con bán cho những hộ chăn nuôi cá thịt trong và ngoài tỉnh Đồng Tháp. Thấy anh Dũng thành công nên bà con trong vùng cù lao cũng theo anh học hỏi kinh nghiệm và phát triển nghề mới này. Nghề ép cá tra và cá bông mang lại cho bà con sáu xã cù lao phất lên nhanh chóng.
Anh Dũng kể: “Lúc trước theo nghề của ông già nên tôi tiếp tục nuôi cá tra lạc hậu. Nhưng từ khi nguồn con giống trong tự nhiên khan hiếm buộc tôi phải chuyển hướng làm ăn. Tôi quyết định ép cá bông con, vì thấy thị trường cá bông thịt trong nước rất ổn định nên được người chăn nuôi đầu tư nhiều. Từ đó nhu cầu con giống cao, giá cá con ổn định. Vả lại thời gian từ khi cá mẹ đẻ cho tới lúc bán cá con cũng ngắn nên không tốn công chăm sóc nhiều”.
Mất công, tốn sức bù lại lợi nhuận cao
Thời gian đầu, anh Dũng nuôi thử nghiệm 60 con cá bố mẹ. Sau nhiều năm, bây giờ diện tích mặt ao hầm của anh trên 20.000m2 và số lượng cá bố mẹ trong hầm đã lên đến 1.000 con, mỗi con trong lượng trung bình từ 3 – 4kg/con, giá cá giống là 50.000 – 60.000 đ/kg. Cá giống phải từ hai năm tuổi trở lên mới bắt đầu đẻ. Mỗi năm cá mẹ đẻ từ 1- 3 lần, khâu chăm sóc cá bố mẹ lại không quá cực. Từ tháng 1 -5 là vào đầu mùa sinh sản phải cho cá ăn 1 lần /ngày để cá có đủ sức đẻ, khi cá ngưng đẻ thì cho ăn duy trì 3 – 5ngày/lần.
Thức ăn cho cá bông là cá biển hoặc cá linh thả xuống hầm. Tóm lại, bất cứ loại cá nào cũng được, thấy rẻ và không có gai thì mua. Cá bông là loại rất dễ cho ăn. Khi cá sắp đẻ mỗi ngày bơm tháo nước sông vào hầm một lần cho mát. Diện tích ao nuôi ngang 30 m, dài 70m và thả không quá 100 con giống/hầm.
Hiện nay, nghề ép cá bông con đã lan rộng khắp nơi trong huyện Hồng Ngự. Đầu tiên là anh em của anh Dũng rồi đến láng giềng và cả xã cùng nuôi. Vào mùa cá đẻ, các thương lái lui tới xã cù lao này rất nhộn nhịp.
Ông bà ta ngày xưa thường nói “Làm ruộng ăn cơm nằm, chăn tằm ăn cơm đứng”. Từ khi theo nghề nuôi cá bông con, anh Dũng cho biết còn cực hơn chăn tăm nhiều, nhất là trong mùa cá sinh sản. Chăm sóc cá đẻ còn khó hơn chăm sóc trẻ sơ sinh. Phải theo dõi từng giờ xem con cá thế nào, khoẻ hay yếu để kịp thời can thiệp bằng thuốc. Bởi vì đây là thời điểm thu hoạch, nếu cá con có tỉ lệ hao hụt cao thì ít lời. Vào mùa cá đẻ, hầu như vợ chồng anh Dũng luôn có mặt tại ao. Khi cá bị bệnh, vợ chồng anh quên cả ăn là chuyện thường xảy ra.
Làm ruộng ăn cơm nằm, chăn tằm ăn cơm đứng
Để nhận biết cá sắp đẻ, theo kinh nghiệm của vợ chồng anh Dũng, khi thấy trong hầm có cặp cá đực, cá cái dùng miệng cắn rác trên mặt nước lôi đi thì đó là hiện tượng kéo ổ. Như vậy chỉ còn 5 – 7 ngày cá sẽ đẻ. Sau khi đẻ được 4 ngày, dùng rổ bằng lưới mùng vớt từng ổ cá một, rồi cho vào vèo (một cái mùng lưới có diện tích 2 m x 1,5 m) đã được chuẩn bị trước trong một cái ao khác để tránh cho cá con không bị cá tạp ăn thịt và tiện việc chăm sóc.
Khâu cho ăn và chăm sóc cá con rất quan trọng, giai đoạn này quyết định thành công hay thất bại cho một mùa cá. Trung bình mỗi con cá mẹ đẻ khoảng 10.000 con cá con. Nếu đẻ từ tháng 1 – 3 âm thì tỉ lệ hao hụt là 10%, nếu đẻ từ tháng 4 – 5 âm lịch thì tỉ lệ hao hụt rất cao, vì lúc này mưa nhiều nên cá con dễ nhiễm bệnh, nhưng khi mưa xuống thời tiết mát mẻ lại là mùa cá đẻ nhiều. Để giảm tỉ lệ hao hụt cá con, anh Dũng đang nghĩ cách làm sao cho cá đẻ rộ vào tháng 2 – 3 âm lịch để cá con ít chết.
Thức ăn cho cá con cũng dễ tìm, lúc cá mới nở cho ăn trứng vịt. Sau 3 ngày thì cho ăn cá biển thái bỏ xương xay nhuyễn. Lúc cá 10 ngày tuổi thì bán được, ở giai đoạn này giá cá trung bình 200 – 400 đ/con. Chị Dũng tươi cười nói với chúng tôi “Nghề ép cá bông con cực lắm nhưng vui, nhất là vào mùa cá đẻ rộ. Thị trường khan hiếm con giống, lái cá điện thoại tới liên tục yêu cầu mình hẹn ngày cho họ tới mua cá. Bởi vậy dù cực nhưng kiếm lợi nhiều nên tôi vẫn ham nuôi”. Trong nghề nhân giống cá, khâu chọn cá bố mẹ và khâu chăm sóc đóng vai trò rất quan trọng.
Anh Dũng cho biết, lúc đầu vì chưa có kinh nghiệm nên tỉ lệ sống trên từng ổ cá là 50%, nhưng sau nhiều năm kinh nghiệm, anh đã nắm chắc nuôi là có lãi mà lãi cao. Khi bắt con cá giống trên tay chỉ cần nhìn màu vảy là anh biết được cá đã đẻ rồi hay chưa. Nếu chưa đẻ lớp vảy cá sẽ bóng mượt và thân hình mập mạp; đẻ rồi thì lớp vảy sần sùi, cá bị ốm thì trông là biết ngay. Dựa vào những kinh nghiệm đó, anh Dũng theo dõi đàn cá của mình rất chính xác để làm ổ cho cá đẻ và vớt cá vào vèo. Nhờ vậy, đàn cá của anh có tỉ lệ sống rất cao.
Từ khi có dịch cúm gia cầm xảy ra, giá cá tra, ba sa ở thị trường trong nước tăng vọt kéo theo giá cá bông, hiện nay giá cá bông trên thị trường là 25.000 – 28.000 đ/kg. Đây là cái giá “trong mơ” của những hộ nuôi cá bông thịt, giá cá bông con cũng tăng theo. Đây quả là mùa bội thu của những hộ chăn nuôi thuỷ sản.
Với những tín hiệu vui trên, chắc hẳn trong năm 2005 sẽ là một mùa bội thu cho những người làm nghề ép cá giống ở sáu xã cù lao của huyện Hồng Ngự nói chung và gia đình anh Dũng nói riêng.
Nguyễn Huyền – VNeconomy, 4/01/2005
Ương cá bột 5 ngày tuổi (chiều dài khoảng 6 cm) thành cá giống 60 ngày tuổi (chiều dài khoảng 6-12 cm).
a. Điều kiện ao ương:
– Diện tích 200-1000 m2, giữ nước được trong mùa kiệt và không bị nậgp trong mùa lũ. Nguồn nước không bị nhiễm bẩn, nhiễm phèn. Cấp thoát nước chủ động, độ sâu 1,2-1,5 m.
– Bón vôi để diệt tạp, diệt mầm bệnh và tăng pH (không bị phèn). Liều lượng vôi: 10-15 kg/100 m2 ao (ao mới đào).
b. Bón phân tạo thức ăn tự nhiên:
– Bón phân chuồng (phân gà, bò, heo….) ủ cho hoai, liều lượng 10-15kg/100 m2 ao.
– Bón phân đạm (phân urê) 300 gram/100 m2 ao, phân lân 100 gr/ 100 m2 ao. Khi phân bón lót đã phân hủy hết (6-7 ngày) nước có màu xanh đọt chuối thì tiến hành thả cá vào ương.
c. Mật độ thả ương:
Mật độ thả cá ương từ 5.000- 10.000 con cá bột/100m2 ao. Nếu ương cá bằng vèo đặt trong ao (có những điều kiện như trên) mật độ ương là 800- 1000 con/ 1 m2 vèo.
d. Cho ăn và chăm sóc:
– Giai đoạn cá 5-15 ngày tuổi: Chủ yếu cho ăn động vật phù du (trứng nước), kết hợp với bón phân tạo màu nước xanh đọt trước.
Trong trường hợp thiếu hợp những loại thức ăn trên có thể cho cá ăn cua, cá tạp xay nhuyễn: 1 kg cua, cá tạp/ 10.000 cá con/ngày.
– Giai đoạn cá 18-25 ngày tuổi: Vẫn sử dụng những loại thức ăn trên và bổ sung thêm Vitamin C, Vitamin ADE. Lúc này cá đã có màu vàng, trên thân xuất hiện vẫy, cá mẹ không còn quanh quẩn bên cá con và cá con cũng bắt đầu tách đàn sống độc lập.
– Giai đoạn cá 25-35 ngày tuổi: Cá đã có màu đen giống cá trưởng thành, chiều dài 2-6 cm. Ăn được cá tạp xay nhuyễn, lượng cho ăn khoảng 10% trọng lượng thân cá. Tỉ lệ sống đến giai đoạn này khoảng 80%.
– Giai đoạn cá 35- 60 ngày tuổi: Thân dài 6-12 cm đạt tiêu chuẩn cá giống. Cho cá ăn các loại cá tạp, tôm tép, liều lượng 8% trọng lượng cá. Tỉ lệ sống trong giai đoạn này khoảng 60%. Lúc này đã có thể tuyển lựa cá đồng cở đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
Tập Tính Sinh Sản Và Sinh Trưởng Của Cá Chép Koi Nhật
Nuôi cá chép Koi Nhật làm cảnh trong các hồ, bể là thú vui tao nhã của nhiều người. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi Koi, chúng ta cần chú ý đến tập tính sinh sản và sinh trưởng của cá để cá Koi phát triển tốt nhất.
Cá Koi khi được nuôi trong hồ, bể có diện tích nhỏ thì chỉ có kích thước khá khiêm tốn, dài nhất khoảng 25 cm. Tuy nhiên, khi được đưa ra môi trường bên ngoài hoặc trong các hồ rộng lớn, kích thước cá có thể đạt mứa 80cm. Cá chép Koi có tuổi thọ lên đến 50 năm, chính vì vậy, cá Koi mang trong mình ý nghĩa của sự trường tồn, phồn vinh, vĩnh cửu.
Khoảng 1 năm tuổi, cá chép Koi Nhật có thể đẻ trong môi trường nhân tạo. Cá Koi thường đẻ vào ban đêm và buổi sáng sớm, khi đẻ, cá đực luôn bám đuôi và thúc vào hông cũng như phần bụng cá cái. Hồ, bể để Koi đẻ thường không quá sâu và rộng rãi để có thể bắt cá bố và cá mẹ ra ngoài sau khi đẻ xong. Cái ở độ tuổi từ 2-3 năm thường cho khoảng 150 đến 200 ngàn trứng mỗi lần đẻ. Cá Koi sinh sản được coi là sẽ mang lại tài lộc cho gia chủ. Chính vì thế, chúng được nuôi làm cảnh trong nhiều gia đình Việt Nam.
Trứng của cá Koi là trứng dính, nên sau khi đẻ trứng thường dính vào cá giá thể, người ta thường dùng lá lục bình hay vải lưới cắt thành từng mảng thả vào. Nếu bể rộng, nhiều giá thể, cá vận động nhiều thì sẽ đẻ được nhiều trứng, và cá trứng dính ít lại với nhau, ngược lại thì trứng cá sẽ dễ bị hư.
Những điều cần biết khi chăm sóc hồ cá Koi
Sau khi cá cái đẻ xong, cá đực bơi theo sau và thụ tinh lên trứng. Sau 40-50 giờ thì trứng nở thành cá bột. Do thời gian nở rất lâu nên nếu nước trong bể ấp không sạch hoặc do nhiệt độ nước thay đổi không phù hợp thì các trứng không được thụ tinh sẽ bị hỏng, có thể lây lan đến các trứng tốt. Sau khi tiêu thụ hết noãn hoàn thì cá 2 ngày tuổi có thể ăn được những thức ăn nhỏ và mịn.
Khi nuôi cá Koi làm cảnh trong các hồ, bể gia đình, chúng ta cần hết sức lưu ý để cá Koi có thể sinh trưởng và phát triển tốt nhất.
Kỹ Thuật Sinh Sản Và Nuôi Thương Phẩm Cá Lóc
Vì thế, nghề nuôi cá lóc vừa phù hợp với những hộ nghèo nguồn vốn đầu tư ít, vừa phù hợp với các doanh nghiệp đầu tư nuôi với quy mô trang trại. Đây vừa là mô hình nuôi góp phần xóa đói giảm nghèo, vừa là mô hình làm giàu cho các doanh nghiêp của Việt Nam, nên cần được đầu tư phát triển và nhân rộng.
A. Kỹ thuật sinh sản và ương ấp
I. Một số đặc điểm của cá lóc
– Cá lóc thường sống ở đồng ruộng, sông, kênh rạch và có khả năng thích ứng cao với sự biến động về nhiệt độ nước của môi trường.
– Thức ăn ưa thích là động vật và thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cá.
– Cá lóc là loài có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, trong điều kiện nuôi tốt thì sau 6 – 8 tháng cá có thể đạt 0,5 – 1,2 kg/con; cá cái thường lớn nhanh hơn cá đực.
– Cá lóc đẻ lần đầu khoảng 5 – 6 tháng tuổi, tốt nhất ở giai đoạn 1 – 4 tuổi, sinh sản tập trung từ tháng 4 – 8 và có tập tính bảo vệ trứng và cá con.
II. Nuôi vỗ cá lóc trong ao
– Diện tích ao: 200 – 1.000m2, mật độ: 40-50 kg/100m2
– Thức ăn: Nếu dùng cá tạp, phế phẩm lò mổ, khẩu phần 5 – 7% khối lượng/ngày. Nếu dùng thức ăn viên (đảm bảo 45% đạm) 1,5-2% khối lượng cá/ngày.
– Nuôi khoảng 45 – 60 ngày cá thành thục.
– Chọn cá bố mẹ: Cá đực cơ thể thon, bụng nhỏ, màu sắc rõ các vạch trên thân, không xây sát. Cá cái: bụng to, mềm, lỗ sinh dục màu hồng, lồi, trứng vàng rơm, bóng, đều.
III. Cho cá lóc đẻ và ấp trứng 1. Cho cá đẻ tự nhiên trong ao
– Có thể đào hố đất nhỏ (2-4 m2), độ sâu 0,8-1,2m, có nguồn nước cấp vào ao đẻ. Mặt hố có thể thả ít bèo, rau muống hoặc làm vỉ che nắng. Mật độ 1 cặp/1 ao (1 đực, 1 cái).
– Nếu sử dụng ao to cho cá lóc đẻ cần tiến hành như sau:
+ Cải tạo ao, vét bùn, rải vôi, phơi đáy.
+ Lấy nước vào ao, để lắng trong 3-5 ngày. Duy trì mực nước 0,8-1m.
+ Làm tổ cho cá đẻ bằng lá dừa cắm xuống ao hoặc rau, bèo, mỗi tổ cách nhau 3-4m, cắm cách đáy 0,3-0,5m. Để sẵn trong tổ rau muống, rơm rạ để giữ trứng khi cá đẻ.
2. Kích thích cá lóc đẻ bằng phương pháp nhân tạo
– Yêu cầu: Chọn cá chính xác, đặc biệt cá đực; kích thích tố có hoạt tính cao.
– Đối với cá đực: Tiêm trước cá cái 8-10 tiếng, liều lượng: HCG 3.000 – 4.000 UI/kg hoặc tiêm cùng với lần tiêm thứ nhất của cá cái.
– Đối với cá cái: tiêm 2 lần:
+ Liều 1: 500 – 1.000 UI/kg cá cái.
+ Liều 2: tiêm sau lần 7 – 8 giờ tiếp tiêm lần 2: liều lượng: 3 – 5 não + 3.000 – 4.000 HCG UI/kg cá cái.
+ Sau 12 – 15 giờ cá sẽ đẻ trứng
+ Sau khi tiêm xong, có thể cho cá đẻ trong bể xi măng, bể đất lót bạt hoặc cho cá đẻ dưới ao. Bể đẻ có diện tích 2-3m2, độ sâu 0,3-0,5m; mật độ 1 cặp/1 bể. Nếu cho đẻ dưới ao cần cắm tổ cho cá, các tổ cách nhau 3-4m.
3. Ấp trứng
– Có thể sử dụng nhiều phương tiện sẵn có để ấp trứng cá lóc: thau, bể nhựa,…
– Mực nước: 0,2-0,5m
– Mật độ ấp trứng trung bình: 2.000 trứng/dm2
– Thay nước: 6 giờ/lần
– Nguồn nước ấp: sạch, không nhiễm bẩn và nhiễm bệnh
– Chú ý: loại bỏ trứng ung (có màu trắng đục)
– Sau khi cá nở 2 ngày có thể chuyển cá ra các dụng cụ có diện tích lớn hoặc các ao nhỏ đã được cải tạo đúng kỹ thuật.
Cá lóc giống
IV. Kỹ thuật ương cá lóc 1. Ương trong bể
– Thức ăn:
+ Dùng động vật phù du hoặc trứng đã luộc chín đánh tan trong nước cho cá ăn.
+ Cho ăn 4-6 lần/ngày.
+ Lượng cho ăn: thỏa mãn nhu cầu
– Mật độ ương: 2.000-4.000 con/m2.
– Sau 30 ngày, san thưa còn 1.000-2.000 con/m2
– Mực nước: 0,5-0,8m.
– Ngày thay nước 2-4 lần, mỗi lần thay 30% thể tích nước.
– Sau khoảng 10 ngày ương, tập cho cá ăn tép, cá nhỏ băm nát.
2. Ương trong giai/vèo
– Yêu cầu: loại lưới mùng mắt nhỏ cá bột không lọt. Nước ao sạch, mát.
– Mật độ: 10.000-20.000/m2 sau 1 tháng san thưa còn 5.000-10.000 con/m2
– Thức ăn: tương tự như ương trong bể xi-măng, bể nhựa.
– Sau khoảng 10 ngày ương, tập cho cá ăn tép, cá nhỏ băm nát.
B Nuôi cá Lóc thương phẩm
1. Nuôi cá Lóc trong giai đặt trong ao đất
– Thông thường mùa vụ nuôi tập trung từ tháng 5 – 9, trong đó tập trung nhiều nhất vào tháng 7 và tháng 8.
– Giống cá Lóc chọn thả nuôi phải có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, nhiều nhớt, không bị thương tích hay bệnh tật. Cỡ cá giống phải đạt từ 20 – 30g/con, mật độ thả từ 80 – 100 con/m3 là tốt nhất.
– Thành phần thức ăn Cá Lóc là loài cá ăn động vật, thành phần thức ăn bao gồm nhiều loại động vật tươi sống như: cá, tép, ếch nhái… Trong quá trình nuôi, có thể tập luyện cá giống quen dần với loại thức ăn chế biến từ cá nguồn nguyên liệu địa phương như cá tạp, tấm cám, bắp, và vitamin…có hàm lượng đạm cao hơn 20 % hoặc sử dụng thức ăn công nghiệp hay thức ăn tự chế biến để nuôi cá.
– Khẩu phần ăn + Khẩu phần thức ăn từ 5-15% trọng lượng cá. Khẩu phần này được điều chỉnh tùy thuộc vào nhu cầu dinh dưỡng, tình hình sức khỏe và các giai đoạn phát triển của cá. + Thông thường ở thời điểm mới thả giống, do kích thước cá còn nhỏ, thức ăn cần được xay nhuyễn; đến khi cá lớn, thức ăn có thể cung cấp trực tiếp. Việc dùng sàn cho cá ăn được khẳng định mang lại hiệu quả cao trong quá trình nuôi.
b) Chăm sóc và quản lý
Hoạt động chăm sóc và quản lý cá Lóc cần phải được thực hiện thường xuyên. Các hoạt động này bao gồm: kiểm tra giai (hệ thống dây, lưới…) và tình hình sức khỏe của cá nuôi, vệ sinh giai tránh rong bám nhiều ô nhiễm môi trường nuôi.
Thời gian nuôi cá Lóc thường ít nhất là 6 tháng, thông thường là 7 – 8 tháng. Trọng lượng cá khi thu hoạch có thể đạt kích cỡ trung bình 0,5 – 1,5 kg/con. Trước khi thu hoạch 1 – 2 ngày không nên cho cá ăn. Khi thu hoạch có thể dùng vợt vớt cá.
2. Kỹ thuật nuôi cá Lóc trong ao đất a) Chuẩn bị ao
– Diện tích ao: 100 – 1.000 m2, độ sâu: 1,5 – 2 m, nhiệt độ 23 – 32oC, pH từ 6 – 8.
– Ao được cải tạo, dọn dẹp môi trường xung quanh, cống bọng chắc chắn. Bờ bao phải cao hơn đỉnh lủ cao nhất 0,5m. Dùng lưới chắn hoặc đăng tre cao 0,8 – 1m để tránh cá nhảy ra ngoài.
b) Mật độ thả nuôi
Mật độ nuôi trung bình 15 – 30 con/m2, không nên nuôi quá dày ảnh hưởng đến sức lớn của cá
c) Cho ăn và quản lý chăm sóc
– Thức ăn giống như ở nuôi cá trong giai, khẩu phần ăn 5-10 % trọng lượng cá.
– Dùng sàn để cho cá ăn và dễ theo dõi cá. Ngày cho ăn hai lần vào buổi sáng và buổi chiều.
– Thường xuyên kiểm tra hệ thống công trình nuôi và hoạt động của cá. Theo dõi sự biến động chất lượng nước trong ao nuôi, cần giữ nước sạch, định kỳ 2 – 3 tuần thay nước một lần. Nếu có điều kiện thì cho nước lưu thông nhẹ thường xuyên.
Hạ mực nước ao còn khoảng 40 – 50 cm lấy lưới kéo đánh bắt dần. Khi thu hoạch toàn bộ thì phải tát cạn. Chu kỳ nuôi kéo dài ít nhất là 6 tháng, trọng lượng trung bình 0,5 – 1 kg/con.
Theo Minh Anh, Trung tâm Khuyến Nông Quốc Gia,
Sản Xuất Bột Cá Biển
Việc sản xuất bột cá biển ở Việt Nam là một trong những quốc gia có thế mạnh về kinh tế biển, nuôi trồng thủy sản nước ngọt, lợ, mặn đều rất phát triển. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển công nghiệp chế biến, cung cấp bột cá xuất khẩu trong nước, kể cả bột cá biển lẫn bột cá nước ngọt. Bột cá biển Việt Nam có chất lượng, độ đạm rất cao, có khi đạt đến 65-67 độ đạm, điều mà bột cá của các nước trong khu vực như Thái Lan không bao giờ có được. Sản lượng bột cá biển hiện nay cũng rất cao, cung cấp bột cá ra thị trường giao động trong khoảng 800.000 đến 1 triệu tấn/năm. Nguồn cung bột cá trong nước hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu của các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi và thức ăn thủy sản cả về lượng lẫn về chất. Hơn nữa quy trình sản xuất bột cá ngày nay được trang bị hiện đại, máy móc công suất lớn mang lại năng xuất cao và chất lượng sản phẩm tốt.
Nguồn nguyên liệu sản xuất bột cá biển từ phụ phẩm chế biến cá xuất khẩu
Ngành hàng cá phi lê xuất khẩu đang từng bước vươn mình tới các thị trường khó tính, đồng nghĩa với việc ngành chế biến thủy hải sản sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Cùng với đó phụ phẩm từ chế biến cá sẽ cho ra giá trị gia tăng cao trong đó có bột cá. Điều này lại giúp cho nguồn cung cấp bột cá xuất khẩu bổ sung cho ngành chăn nuôi thêm dồi dào.
Nguyên liệu cho sản xuất bột cá là sử dụng các phụ phẩm chế biến cá phi lê như : đầu cá, xương cá hay các loại cá tạp như: cá đù, cá hồng, cá phèn, cá mối, cá mó, cá dìa, cá trích, cá chỉ vàng, cá bò gai, cá nục.
Quy trình sản xuất bột cá biển :
Quy mô công nghiệp : Nắm bắt được giá trị dinh dưỡng to lớn mà bột cá đem lại cùng với sự phát triển mở của ngành chăn nuôi, chế biến phụ phẩm hải sản thành bột cá phục vụ cho chăn nuôi gia cầm, gia súc và thủy hải sản phát triển ngày càng mạnh mẽ được công nghiệp hóa, nâng cao năng xuất cũng như chất lượng.
Các nhà máy được đầu tư lớn với trang thiết bị hiện đại,công suất lớn, quy trình khép kín và đạt chuẩn đáp ứng cả về chất lượng lẫn số lượng mà vẫn đảm bảo vệ sinh môi trường
Quy trình công nghệ sản xuất bột cá chăn nuôi quy mô nhỏ : Song song với nền sản xuất công nghiệp là các hộ gia đình hoặc nhà sản xuất bột cá nhỏ lẻ. Sản xuất bột cá biển chăn nuôi quy mô nhỏ từ hỗn hợp nhiều loại cá tạp theo phương pháp ly tâm
Sơ đồ quy trình công nghệ:
Có 2 cách sản xuất là áp dụng Công nghệ tách nước theo phương pháp ép và phương pháp ly tâm.
Lợi ích bột cá biển đem lại
Bột cá là thành phần quan trọng không thể thiếu trong thức ăn chăn nuôi gia súc và nuôi thủy sản, là nguồn cung cấp protein quý góp phần quan trọng trong quá trình phát triển đàn vật nuôi.
Bột cá phù hợp với tất cả các loại vật nuôi như gia cầm, gia súc hay thủy hải sản. Mang giá trị thiết thực đối với ngành chăn nuôi
Bột cá còn là giá trị gia tăng nổi bật của ngành chế biến thủy hải sản Việt Nam, đem lại lợi ích kinh tế to lớn.
Kết luận :
Có thể thấy bột cá có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với hộ chăn nuôi cũng như nền kinh tế nước ta. Việc sản xuất bột cá biển chất lượng, năng suất đảm bảo đáp ứng nhu cầu thực phẩm vật nuôi và ổn định giá cả sẽ góp phần phát triển ngành chăn nuôi của nước nhà, giúp bà con chăn nuôi thắng lợi.
Bạn đang xem bài viết Tập Tính Sinh Sản Và Sản Xuất Cá Lóc Bột Cá Lóc Giống trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!