Cập nhật thông tin chi tiết về Nuôi Cá Lóc Bông Bằng Sâu Canxi Hiệu Quả Cao mới nhất trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Bí Kíp Nuôi Cá Lóc Bông Thành Công
Cá lóc là giống cá dữ, ăn tạp, chủ yếu là ăn động vật và có kích thước chon dài. Chúng sinh sống phổ biến ở trong môi trường nước ngọt như: kênh rạch, đồng ruộng, ao hồ, đầm, sông… Thậm chí cá lóc còn thích nghi được trong môi trường ô nhiễm như: nước đục, nước tù, nước lợ cửa sông. Vào những hôm thời tiết nóng nực, cá chịu được nhiệt độ nước trên 30 độ C.
Cá lóc ưa thích những khu vực có rong đuôi chó, cỏ, bèo vì những khu vực này tập trung nhiều con mồi là nguồn thức ăn khoái khẩu của chúng. Mùa hè ấm áp, cá thường bắt mồi ở tầng nước mặt. Mùa đông lạnh, chúng thường hoạt động chủ yếu ở tầng nước sâu. Cá lóc nuôi thương phẩm nếu được chăm sóc và cho ăn đầy đủ sẽ lớn rất nhanh và đạt trọng lượng từ 0,8 -1,2 kg/con sau 6 tháng. Hiện nay, bà con có thể áp dụng rất nhiều mô hình nuôi cá lóc khác nhau như: nuôi cá lóc trong bồn nhựa, bể xi măng, bể lót bạt, ao đất… tùy vào điều kiện cụ thể nhưng vẫn cho năng suất cao.
Cá thành thục khi được 23 – 24 tháng tuổi. Cá đẻ trứng nổi,thụ tinh ngoài. Khi sinh sản, chúng có tập tính ấp trứng và canh giữ trứng nên rất hung dữ trong giai đoạn này. Mùa vụ phát dục và sinh sản kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm, tập trung vào tháng 6 – 7 dương lịch. Trong tự nhiên, mùa sinh sản thường từ đầu đến giữa mùa mưa, khi nước lũ về ngập các cánh đồng thì cá bắt cặp, làm tổ và tiến hành sinh sản. Cá đẻ tái phát dục 3 – 4 lần trong năm. Cá có kích cỡ 3- 4kg, có lượng trứng từ 7.000- 15.000 trứng. Cá đực, cái ghép cặp và đẻ trứng trong tổ và bảo vệ tổ trứng rất kỹ, cho đến khi cá con đã có thể sống độc lập và chủ động bắt mồi.
– Cá lóc thuộc loài cá dữ, tính ăn rộng. Cá nhỏ ăn các loại giáp xác, chân chèo, ấu trùng côn trùng; cá lớn hơn có thể ăn các loại côn trùng, các loại cá nhỏ, tôm nhỏ …; cá trưởng thành ăn tạp, ăn tất cả các loại cá, tôm, ếch, nhái. Trong điều kiện nuôi, cá cũng ăn thức ăn chế biến. – Khi thiếu thức ăn cá lóc sẽ ăn thịt lẫn nhau, con lớn sẽ ăn con bé. Cá ăn mạnh vào mùa hè, mùa đông cá không bắt mồi.
Giá Trị Dinh Dưỡng Tuyệt Vời Của Sâu Canxi
Đây là chỉ số thành phần dinh dưỡng của ấu trùng ruồi lính đen sấy khô, nếu dùng ấu trùng ruồi lính đen tươi thì hàm lượng dinh dưỡng còn tăng nhiều hơn (chẳng hạn hàm lượng chất béo của sâu tươi là 40%). Những thông số trên đủ cho ta thấy ấu trùng ruồi lính đen có hàm lượng dinh dưỡng rất là cao và là nguồn dinh dưỡng tuyệt vời.
Quá trình chăn nuôi của bạn hoàn toàn là tự nhiên không hề có sự can thiệp của bất kì hóa chất gây hại nào cho chúng. Vì thế, thực phẩm từ vật nuôi hoàn toàn an toàn với sức khỏe của bạn và các thành viên trong gia đình.
Bà con có thể tiến hành đào ao mới hoặc sử dụng ao cũ để nuôi cá lóc. Diện tích ao nuôi dao động từ 100 – 1000 mét vuông là hợp lý để tiện cho công tác quản lý, chăm sóc và thu hoạch. Be bờ ao cao lên để tránh cá bơi ra ngoài trong mùa nước lên.
Trước khi thả cá nuôi cần phải vệ sinh ao theo các bước sau:
Tát cạn ao, loại bỏ cá tạp và cá dữ ra khỏi ao, tránh cạnh tranh thức ăn với cá lóc.
Bón vôi với lượng 10 – 15kg/100 mét vuông để tiêu diệt mầm bệnh và khử phèn chua.
Phơi ao từ 2 -3 ngày để đảm bảo tiêu diệt hết mầm bệnh rồi đưa nước vào ao nuôi với độ sâu khoảng 1,5 -2m trước khi tiến hành thả cá.
Do nguồn thức ăn chủ yếu là động vật nên bà con không cần gây màu nước như nuôi các loại cá nước ngọt khác.
Nuôi cá lóc trong bể lót bạt tương tự như cách nuôi cá lóc mau lớn trong ao đất. Tuy nhiên, bà con cần chú ý một số điểm như sau:
Lựa chọn vị trí đặt bể gần sông, ao, hồ… để thuận tiện cho công tác thay nước.
Lựa chọn khu đất trống để tiến hành xây bể. Dựng các trụ xung quanh, rào bằng tre hoặc đắt đất cao xung quanh. Trải bạt ở dưới đáy kết hợp rào lưới xung quanh để tránh cá nhảy ra. Bể cao 1,2 m và duy trì mức nước trong bể từ 0,8 -1m.
Phía trên có mái che nắng, che mưa để tạo bóng râm cho cá.
Đáy bể xây nghiêng về cống thoát nước. Cống đặt dưới đáy bể và có lưới lọc để tránh cá chui ra ngoài.
Lắp máy bơm để công tác cấp nước diễn ra nhanh chóng và chủ động.
Nuôi trong bể lót bạt rất dễ làm nguồn nước bị ô nhiễm, do vậy cần tiếng hành thay nước thường xuyên, mỗi lần thay từ 1/3 tới một nửa lượng nước có trong bể.
Tỷ lệ hao hụt cá khi nuôi trong bể lót bạt lớn (xấp xỉ 40%) so với nuôi trong ao đất nên cần lưu ý chăm sóc thật kĩ lưỡng để giảm những thiệt hại không đáng có.
Nuôi cá lóc trong bể xi măng có thể tận dụng bể cũ hoặc sử dụng bể mới đều được. Tuy nhiên nếu xây mới bà con cần tiến hành ngâm bể và cọ rửa để khử hết mùi xi măng rồi tháo nước để cuốn trôi hết vụn xi măng ra khỏi bể.
Sử dụng dung dịch thuốc tím rắc lên thành bể để diệt khuẩn và tiêu diệt mầm bệnh rồi cọ rửa lại bể trước khi cấp nước vào nuôi cá. Bể xi măng phải đảm bảo có thể thống cấp thoát nước riêng rẽ để tiện cho công tác thay nước thường xuyên. Mực nước trung bình trong bể duy trì từ 0,8 – 1m là hợp lý.
Kỹ Thuật Nuôi Cá Bố Mẹ
Tiêu chuẩn nuôi vỗ cá bố mẹ:
Khi cá thành thục lần đầu có trọng lượng trên Ikg. Nếu là cá lóc bông thì phải đạt 1,5 tuổi trở lên, trọng lượng trung bình trên 2 kg/con. Chọn cá khoẻ mạnh, không sây sát, vây vẩy nguyên vẹn. Tỷ lệ đực cái thả nuôi là 1:1. Tuy cá lóc bông chịu đựng tốt với môi trường nuôi khắc nghiệt nhưng để giúp cho cá thành thục tốt và sản phẩm sinh dục đạt chất lượng, nên nuôi vỗ với mật độ vừa phải. Đối với cá có trọng lượng 3 – 4 kg, mật độ thả nuôi trong ao là 10 m”/cặp. Trước khi thả cá xuống ao, nên tắm cho cá bằng nước muối với nồng độ 25 – 30%o để nhanh lành các vết thương trên cơ thể do đánh bắt, vận chuyển và loại trừ các loại ký sinh bám trên thân cá.
Thức ăn cho cá bố mẹ:
Cá lóc bông thích ăn mồi sống nhưng chúng dễ chuyển đổi loại thức ăn nên phải tập cho cá ăn mồi chết. Thức ăn hiện nay của cá chủ yếu là cá tạp, cá vụn, cá linh, tép, cua, ốc, được thả vào sàn ăn. Ngoài ra, cũng có thể cho cá ăn phụ phẩm của lò giết
Nếu chủ động được nguồn thức ăn cho cá, bà con có thể thả nuôi quanh năm. Nhưng theo kinh nghiệm đúc kết được từ những hộ chăn nuôi cá lóc lâu năm có một số lưu ý như sau:
Vụ 1: chính vụ. Bắt đầu thả cá vào tháng 4 -5 âm lịch và thu hoạch vào tháng 8 – 9 âm lịch. Thời tiết chính vụ dịu mát, nguồn thức ăn dồi dào là điều kiện thuận lợi cho cá lớn nhanh, sinh trưởng và phát triển mạnh. Hơn nữa, nguồn thức ăn sẵn có, dồi dào và chi phí rẻ hơn.
Vụ 2: bắt đầu vào tháng 8 -9 âm lịch và thu hoạch vào tháng 12 hoặc tháng giêng năm sau. Trong giai đoạn nuôi trồng này, nguồn thức ăn tới từ phụ phẩm thủy sản tự nhiên là chủ yếu.
Vụ 3: không nên nuôi trong vụ này. Bắt đầu từ tháng giêng đến hết tháng 7. Giai đoạn này cá lớn khá chậm, thức ăn ít, khó kiếm do vậy chi phí thức ăn cao, nuôi không có lãi.
Bà con lựa chọn đàn cá giống có kích thước đồng đều. Mỗi con cá giống cần đảm bảo khỏe mạnh, không dị tật, không nhiễm bệnh, cơ thể không bị xây xát, mất vẩy, mất nhớt, nhanh nhẹn. Lựa chọn kích cỡ cá giống từ 300 – 1000 con/kg là hợp lý.
Trước khi thả cá lóc giống cần tắm cho cá bằng dung dịch muối loãng 2 -3% trong 5 -10 phút để tiêu diệt kí sinh trùng. Tiếp đó, thả nguyên bao cá nhẹ nhàng xuống nước ao trong khoảng 15 phút để cá thích nghi với nhiệt độ môi trường ao nuôi rồi mới mở đầu bao để cá chui ra ngoài. Nên thả cá vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát là tốt nhất.
Quản lý chất lượng nước trong ao nuôi vô cùng quan trọng, ảnh hướng lớn tới cách nuôi cá lóc mau lớn. Bà con cần quan tâm một số yếu tố như sau:
Nên thay nước định kì 2 lần/tháng, mỗi đợt thay trong 5 ngày và mỗi ngày thay 30% nước trong ao.
Quan sát kĩ khả năng bắt mồi và hoạt động bơi lội của cá trong quá trình chăm sóc hàng ngày. Bắt cá kiểm tra thường xuyên để phát hiện sớm nếu cá mắc bệnh.
Sản Phẩm Sử Dụng Để Nuôi Cá Lóc Bông Tốt Hơn:
Để giữ môi trường nước trong sạch, không bị ô nhiễm dễ gây bệnh cho cá, cần thay nước thường xuyên. Những nơi lấy được nước vào ao nuôi bằng thủy triều nên tháo nước ra bằng cống đặt sát đáy và lấy nước vào bằng cống cấp đặt cao hơn. Nếu không lợi dụng được thủy triều thì phải thay nước và bơm cấp nước mỗi tuần ít nhất một lần, mỗi lần 30% thể tích nước trong ao.
Để phòng tránh ôi nhiễm nước và bệnh cho cá bạn có thể sử dụng các chế phẩm sinh học để xử lý nước và giảm vi khuẩn cho cá.
Các sản phẩm nên dùng kết hợp:
Phòng và điều trị một số bệnh thường gặp trên cá lóc
Để xử lý nước cho bể cá luôn sạch sẽ chúng ta có thể áp dụng các biện pháp sau:
Tham Khảo Video
Nuôi Cá Lóc Bằng Thức Ăn Công Nghiệp Hiệu Quả
Nuôi cá lóc theo hướng công nghiệp
Những năm gần đây, nông dân Bến Tre đã nuôi cá lóc nhưng còn nhỏ lẻ. Cá nuôi dễ mắc bệnh, tốn nhiều công lao động, giá thành cao, lợi nhuận thấp.
Để khắc phục tình trạng trên, nông dân nên nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp để đạt hiệu quả cao.
Môi trường nuôi ít bị ô nhiễm hơn, cá nuôi ít bệnh, công lao động giảm, mật độ nuôi dày hơn, giá thành đầu vào ổn định. Hiện nay, ở các chợ, cá lóc là nguồn thực phẩm chủ lực.
Kỹ thuật nuôi cá lóc: Một số điều căn bản
Một số giải pháp nuôi cá lóc như sau: 1/ Thiết kế ao nuôi:
Cá lóc sống và phát triển tốt ở vùng có độ mặn từ 0 đến 8%o. Ao nuôi cá lóc có diện tích đa dạng, nhưng tốt nhất từ 500 – 2.000m2, thiết kế theo hình chữ nhật để dễ thu hoạch sau này.
Độ sâu chứa nước đảm bảo từ 2 – 2,5m. Đặc biệt, phải có hệ thống cống cấp và thoát nước tốt.
2/ Cải tạo ao nuôi:
Nếu là ao cũ thì vét hết bùn dơ đáy ao, bón vôi 8-15kg/100m2, nếu có điều kiện thì phơi ao từ 3-4 ngày.
Sau đó, cho nước vào ao độ sâu 1m, chú ý nước lấy vào phải lọc, tránh cá lớn vào ăn cá con sau này, 3 ngày sau thì tiến hành thả cá giống.
Khi thả cá xong, mỗi tuần cấp thêm nước từ 10-15cm cho đến khi đạt độ sâu qui định.
Kinh nghiệm nuôi cá lóc đầu nhím làm giàu của anh Quynh
3/ Chọn giống và thả giống:
Để đảm bảo tỉ lệ sống và năng suất sau này, việc chọn mua con giống rất quan trọng, kích cỡ đạt từ 6-10cm, cá phải có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, không dị tật.
Trước khi thả cá, dùng muối ăn pha với nước 3% để tắm cá 3-5 phút.
Nên thả cá lúc trời mát. Mật độ thả cá tùy thuộc ao nuôi, như độ sâu, vốn, theo kinh nghiệm, có thể thả từ 10-50con/100m2.
Phương pháp nuôi cá lóc của người xưa
4/ Chăm sóc và quản lý: a) Thức ăn và cách cho cá ăn:
Thức ăn cho cá lóc phổ biến là loại Cargill. UP, CP… Tùy theo kích cỡ cá mà chọn loại thức ăn có kích cỡ cho phù hợp.
Tháng đầu cho cá ăn 3 lần/ngày (sáng, trưa, chiều). Từ tháng thứ hai trở đi, cho ăn 2 lần/ngày. Khi cho cá ăn, dùng cây gõ vào cầu tạo tiếng động cho cá gom lại.
Nếu cá giống chưa quen thức ăn công nghiệp thì phải tập cho cá chuyển từ từ bằng thức ăn cá tạp sang thức ăn công nghiệp.
Cách làm như sau: Dùng sàng ăn bằng tre hoặc trúc, diện tích khoảng 1m2, khoảng cách nẹp tre cách nhau 1,5cm. Đặt cách bờ từ 4-5m, nổi trên mặt nước.
Thức ăn là cá tạp còn tươi rửa sạch xay nhuyễn, mỗi lần cho ăn trộn vào 2-3% thức ăn công nghiệp, để nguyên cục bỏ trên sàng, cá tự động lại rỉa ăn.
Cứ mỗi lần cho cá ăn thức ăn công nghiệp tăng dần lên, khoảng 10-15 ngày cá đã quen với thức ăn công nghiệp thì chuyển hẳn sang cho ăn thức ăn công nghiệp.
Khi cho ăn, cần trộn thêm men tiêu hóa đường ruột và vitamin C giúp cá mau tiêu hóa và tăng sức đề kháng.
Chú ý khi thả cá giống được 20 ngày mới tập cho cá ăn thức ăn công nghiệp, không nên tập sớm quá làm cá dễ bị mất sức.
b) Quản lý ao nuôi:
Hàng ngày, nên theo dõi khả năng bắt mồi của cá. Nếu cá giảm ăn hoặc ăn không tăng thì có vấn đề. Một là cá có dấu hiệu bị bệnh, hai là môi trường ao bị dơ, khí độc nhiều, oxy thấp. Kiểm tra màu nước của ao nuôi để có cách thay nước hợp lý.
Nấm thuỷ mi cá lóc giống trị như thế nào?
Thông thường, cá nuôi dễ mắc bệnh ghẻ, do đó phải theo dõi thật kỹ để phát hiện kịp thời. Khi phát hiện cá bị ghẻ, dùng thuốc IODINE nồng độ 1ppm tạt xuống ao. Nếu bị ít thì dùng thuốc 1 lần, nếu cá bệnh nhiều thì xử lý 2 lần.
Mỗi lần cách nhau 5 ngày. Khi nuôi cá lóc được 2 tháng, có thể dùng vi sinh định kỳ để xử lý đáy ao giúp giải phóng khí độc (vi sinh xử lý theo nhà sản xuất).
Khi còn nhỏ, cá thường vào mé bờ, dễ bị chim, cò ăn nên cần có biện pháp giúp cá ít hao hụt (dùng lưới rào xung quanh mé mương).
Khi cho cá ăn, nên rải thức ăn từ từ, tránh để thức ăn dư thừa.Theo dõi sự tăng trưởng của cá để có cách xử lý thích hợp.
5/ Thu hoạch:
Nuôi cá lóc khoảng 5 tháng, cá đạt trọng lượng trung bình từ 2-3con/kg thì thu hoạch, cũng có thể để cá lớn hơn tùy theo thị trường tiêu thụ.
Khi thu hoạch bằng rọ, tránh để cá bị xây xát, bảo quản cá sống lâu hơn. Nếu quản lý và chăm sóc ao nuôi tốt, thì hệ số chuyển hóa thức ăn từ 1 – 1,4kg được 1kg cá. Tỉ lệ sống trung bình từ 60 – 80%.
Mô hình nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp
Gần đây, phong trào nuôi cá lóc thương phẩm ở Bình Thuận phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế ổn định cho người dân địa phương.
Tuy nhiên, đối với nghề nuôi cá lóc hiện nay, khó khăn lớn nhất là quản lý nguồn nước và nguồn thức ăn cá tạp tươi đảm bảo chất lượng và số lượng.
Vào mùa gió bấc (thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau) nguồn cá biển khan hiếm và giá lúc này cũng tăng cao nhiều so với vụ cá nam (thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9).
Bên cạnh đó, Bình Thuận không phải là một tỉnh có nguồn nước ngọt dồi dào như các tỉnh miền Tây Nam bộ, do đó cá lóc chỉ phù hợp với một số địa điểm – nơi có nguồn nước ngọt dồi dào quanh năm – để thuận lợi cho việc thay nước hàng ngày trong ao cá.
Ngoài ra, việc nuôi cá lóc cho ăn bằng thức ăn tươi sống gây ô nhiễm nhanh chóng nguồn nước trong ao, và để giảm thiểu tình trạng cá bệnh người nuôi phải thay nước hàng ngày hoặc cho nước vào ra liên tục trong ao.
Một số vùng nuôi không có điều kiện nguồn nước thuận lợi, việc nuôi cá lóc trở nên rất khó khăn do cá thường xuyên bị bệnh, việc sử dụng các loại thuốc kháng sinh, hóa chất diệt khuẩn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, do chất lượng cá tạp phải đảm bảo tươi nên hàng ngày người dân phải đi mua cá về sau đó tiến hành sơ chế (rửa, xay hoặc chặt…) rồi mới cho cá ăn. Công việc này tốn nhiều thời gian, công sức và tiền của người dân.
Để góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất của người dân, tháng 8/2011, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Bình Thuận đã thực hiện mô hình “Nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp” với quy mô 500m2 tại hộ ông Châu Minh Tâm, xã Vĩnh Hảo, huyện Tuy Phong.
Mô hình nghiệm thu ngày 26/12/2011. Qua gần 4 tháng nuôi cá đạt cỡ trung bình 420g/con, tỷ lệ sống đạt 60%.
Kết quả cho thấy cá lóc thích nghi tốt với điều kiện môi trường, nguồn nước khu vực nuôi. Cá lóc cũng thích nghi tốt với thức ăn công nghiệp và đạt tốc độ tăng trưởng tốt.
Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Bình Thuận giới thiệu tóm tắt quy trình thực hiện như sau:
1. Chuẩn bị ao nuôi:
– Diện tích ao nuôi: 2.000-5.000m2. Diện tích lớn sẽ tương đối khó khăn trong việc quản lý và chăm sóc cá.
– Đối với ao mới phải súc rửa ao bằng cách cho nước vào ao ngâm khoản 2-3 ngày sau đó xả bỏ rồi tiếp tục cấp nước vào ngâm rồi xả bỏ. Tiến hành quá trình súc rửa trên ít nhất 2-3 lần trước khi thả giống để có môi trường ao nuôi ổn định cho cá phát triển.
– Đối với ao đã qua sử dụng: Xả cạn nước ao, súc rửa hoặc sên vét bùn cho sạch. Gia cố bờ, cống, lưới rào ao đề phòng địch hại như ếch, rắn, chim cò ăn cá.
Chích điện hoặc dùng Saponin (10kg/1.000m2) để diệt cá tạp còn sót trong ao. Bón vôi với lượng tùy thuộc vào độ phèn của đất. Sau đó phơi ao 5-7 ngày thì cấp nước vào.
Đối với những ao phèn thì không tháo sạch nước để tránh xì phèn.
Nhu cầu bón vôi phù hợp với loại đất và pH đất:
– Cấp nước vào ao qua lưới lọc để tránh cá tạp và địch hại vào ao ăn cá. Mực nước cấp vào từ 0,6-0,8m. Gây màu nước bằng hỗn hợp cám gạo (1kg) + Bột đậu nành (1kg) hòa với nước ngâm qua đêm tạt đều cho 1.000m2.
Ngày tạt 2 lần, tối ngâm thì sáng tạt, sáng ngâm thì chiều (16-17h) tạt. Bổ sung thêm mỗi ngày 2kg cá tạp nấu chín xay nhuyễn tạt đều ao để màu nước lên tốt hơn. Sau 2-3 ngày màu nước lên tốt thì tiến hành thả cá giống.
Cũng có thể gây màu nước bằng nhiều cách khác như sử dụng phân hóa học, phân chuồng hoặc chế phẩm sinh học gây màu nước.
2. Thả giống:
– Mật độ nuôi: Cá lóc là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao tuy nhiên chi phí cho vụ nuôi tương đối lớn, do đó tùy thuộc vào điều kiện nguồn nước, ao hồ và kinh tế gia đình mà người dân quyết định mật độ nuôi thưa hay dày. Thường cá lóc được nuôi ở mật độ 20-30con/m2. Ao có nguồn nước không thật thuận lợi thì chỉ nên nuôi mật độ thưa không quá 10con/m2.
– Mùa vụ thả giống: Do chủ động về nguồn thức ăn nên người nuôi có thể thả giống quanh năm, tùy điều kiện nguồn nước, nguồn giống và tính toán giá thành sau thu hoạch. Mùa vụ chính thả giống là từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm, lúc này nguồn cá giống và nguồn nước cũng dồi dào tuy nhiên giá thương phẩm sau thu hoạch thường thấp hơn so với vụ nghịch do sản lượng thu hoạch dồi dào từ nhiều địa phương.
– Chọn giống: Con giống đồng đều về kích cỡ, khỏe mạnh, màu sắc sáng đẹp, thân hình cân đối, không mang các dấu hiệu nhiễm bệnh. Tốt hơn hết người dân nên chọn mua tại các cơ sở sản xuất uy tín.
Kích thích cá lóc sinh sản nhân tạo ra sao?
3. Thức ăn và cách cho ăn: a. Trường hợp cho cá ăn bằng cám công nghiệp ngay từ nhỏ:
Do cá giống mới thả còn nhỏ, chưa quen với việc ăn bằng cám viên công nghiệp nên việc tập cho cá chuyển đổi loại thức ăn cần tiến hành theo các bước sau:
* Giai đoạn tập ăn 1: Tập cho cá quen với mùi vị thức ăn công nghiệp:
– Cá giống mới thả: Khẩu phần thức ăn hàng ngày bằng 10% trọng lượng đàn cá.
Phối trộn theo tỷ lệ: 70% cá tạp tươi + 30% cám công nghiệp. Nếu là dạng cám bột thì trộn vào chung với cá tạp theo tỷ lệ trên rồi xay nhuyễn, trường hợp cám viên thì ngâm qua nước cho mềm sau đó trộn chung với cá tạp tươi rồi xay nhuyễn.
– Hỗn hợp thức ăn sau khi xay nhuyễn được cho vào sàng để cá vào ăn.
– Mỗi ngày tăng 10% lượng cám công nghiệp trong tỷ lệ phối trộn cho đến khi đạt tỷ lệ 50% cá tạp
+ 50% cám công nghiệp thì chuyển sang giai đoạn tập ăn cám viên.
* Giai đoạn tập ăn 2: Tập cho cá quen ăn thức ăn dạng viên:
Sau khoảng 5 ngày tập, cá ăn quen với mùi vị cám công nghiệp thì tiếp tục tập cho cá ăn dạng thức ăn viên.
Cách thực hiện: Trộn thêm 5% cám công nghiệp dạng viên (trong tổng lượng thức ăn cho cá ăn hàng ngày). Ban đầu cám nên được ngâm nước trước cho mềm rồi trộn chung với hỗn hợp thức ăn đã xay nhuyễn của giai đoạn tập ăn 1.
Hỗn hợp thức ăn trên được rải xuống sàng để cho cá ăn. Ban đầu có thể cá chưa quen sẽ nhả các hạt thức ăn viên ra, trường hợp như vậy cần tập tiếp với tỷ lệ phối trộn như trên thêm 2-3ngày nữa cho đến khi cá không còn nhả các viên thức ăn ra nữa thì thôi.
Những ngày sau đó thì lượng cám viên tiếp tục tăng lên 10%/ngày đồng thời thời gian ngâm nước cũng ngắn dần cho đến khi không ngâm nữa (cho cá ăn quen với thức ăn viên cứng). Khi thấy cá đã hoàn toàn quen với việc ăn thức ăn viên thì chuyển hoàn toàn sang cho ăn bằng thức ăn viên công nghiệp.
* Giai đoạn cho ăn hoàn toàn bằng cám viên:
– Từ tháng thứ hai đến khi thu hoạch: Cá đã ăn quen cám viên thì cho ăn hoàn toàn bằng cám viên. Khẩu phần thức ăn dao động từ 3-7% trọng lượng thân, tùy giai đoạn phát triển của cá. Do chất lượng của từng loại cám viên khác nhau vì vậy người dân nên cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất để đạt hiệu quả tốt nhất.
– Ở giai đoạn này thức ăn được rải trực tiếp xuống ao cho cá ăn, không còn cho ăn trong sàng nữa.
b. Trường hợp tập cho cá ăn bằng cám công nghiệp khi cần thiết:
Do tập tính tạp ăn của cá người dân hoàn toàn có thể chuyển đổi linh hoạt trong việc sử dụng thức ăn công nghiệp và cá tạp vào bất cứ lúc nào trong suốt vụ nuôi nhằm chủ động về nguồn thức ăn đồng thời giảm chi phí về thức ăn.
Đối với cá đã nuôi thương phẩm trên 1tháng, việc tập cho cá chuyển sang ăn cám viên công nghiệp là tương đối dễ dàng, giúp người dân hoàn toàn chủ động về thức ăn cho cá.
Bỏ cá nhịn đói 1 ngày sau đó trộn cám viên đã ngâm nước với cá tạp đã xay nhuyễn theo tỷ lệ 70% cá tạp + 30% cám viên.
Các bước thực hiện được tiến hành như giai đoạn tập ăn 2. Sẽ chỉ mất từ 3-5ngày để cá quen với việc ăn bằng thức ăn viên công nghiệp.
4. Chăm sóc và quản lý nuôi cá lóc:
Theo dõi tình trạng ăn mồi, thời tiết và sức khỏe của cá hàng ngày để tăng hoặc giảm lượng thức ăn cho phù hợp. Cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất, không cho ăn quá nhiều tránh tình trạng cá bị chướng bụng chết.
Do cho ăn bằng cám công nghiệp nên môi trường nước cũng ít ô nhiễm hơn nhiều so với nuôi bằng cá tạp. Tuy nhiên, đối với vùng nuôi có nguồn nước ngọt ra vào chủ động thì cho nước ra vào ao thường xuyên hàng ngày để kích thích cá ăn mồi và phát triển.
Đối với những vùng không có điều kiện nguồn nước dồi dào nên tiến hành thay nước 2-3 tuần 1 lần tùy tình trạng môi trường và sức khỏe cá trong ao, đồng thời định kỳ 7-15 ngày bổ sung chế phẩm sinh học giúp phân hủy chất thải, khí độc và ổn định môi trường ao nuôi.
Đảm bảo từng khâu trong quy trình khuyến cáo, mô hình có thể áp dụng được rộng rãi tại tất cả các vùng nuôi thủy sản nước ngọt trong tỉnh, góp phần giải quyết khó khăn trong việc quản lý nguồn nước và đảm bảo nguồn thức ăn cá tạp tươi trong quy trình nuôi truyền thống.
Việc sử dụng thức ăn công nghiệp thay thế cho thức ăn cá tạp trong quy trình nuôi cá lóc thương phẩm có nhiều ưu điểm so với quy trình nuôi truyền thống sử dụng thức ăn cá tạp:
Không tốn nhiều công sức để đi mua và sơ chế trước khi cho ăn, giảm hẳn chi phí thuê nhân công.
Nguồn cung cấp và chất lượng thức ăn luôn chủ động và ổn định.
Giảm hẳn chi phí cho việc bổ sung các loại thuốc bổ giúp cá nâng cao sức đề kháng và tiêu hoá tốt do trong thức ăn công nghiệp các thành phần trên đã được tính toán phối trộn cẩn thận theo nhu cầu của cá.
Ít gây ô nhiễm nguồn nước do đó giảm nhu cầu sử dụng nguồn nước và giảm tình trạng cá nhiễm bệnh do môi trường bị ô nhiễm mà không có nước thay.
Giảm hẳn việc sử dụng kháng sinh và hoá chất trong quá trình nuôi.
Thích hợp với những vùng nuôi xa nguồn cung cấp cá tạp và có nguồn nước không thật thuận lợi.
Nuôi Cá Trê Vàng Cho Hiệu Quả Kinh Tế Cao
Sau nhiều năm gắn bó với con cá tra, chú Nguyễn Ngọc Hải, chủ nhiệm HTX nuôi cá tra Thới An, quận Ô Môn, TP Cần Thơ đã mạnh dạn chuyển đổi sang nuôi cá trê vàng, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.
Sau khi đi tìm hiểu nhiều nơi, học hỏi kinh nghiệm của những người nuôi trước, chú Hải quyết định bắt tay nuôi con cá trê vàng gặt từ đầu năm nay. Ngoài ao nuôi cá tra cạnh nhà được cải tạo lại để nuôi cá trê thịt, chú còn thuê thêm một ao khác để ương cá trê vàng giống, vừa cung cấp cho ao nhà để nuôi thương phẩm, vừa để bán cá giống cho các hộ khác có nhu cầu.
– Với 2.000 m 2 mặt nước, chú thả nuôi với gần 80.000 con cá giống, thu hoạch được gần 9 tấn cá thịt với giá 42.000 đ/kg sau khi trừ hết chi phí, lợi nhuận thu được gần 90 triệu đồng.
Ngoài ao cá thịt, ao cá giống còn lại cũng vừa thu hoạch được hơn 1 tấn cá trê giống, bán với giá 75.000 đ/kg cá cỡ 180 con/kg, lợi nhuận thu được gần 40 triệu đồng. Như vậy, với hai cao cá trê vàng giống và thương phẩm, sau gần 4 tháng nuôi mang lại thu nhập khoảng 120 triệu đồng.
Trung bình để có 1 kg cá thịt chỉ tiêu tốn khoảng 1,2 kg thức ăn, trong khi cá tra phải đến 1,5 kg thức ăn. Bên cạnh đó, do cá trê vàng thích hợp với nước ao tù, nên người nuôi không phải thay nước nhiều lần hay bón vôi xử lý ao… nên chi phí đầu tư giảm đi nhiều. Ngoài ra, giá cá trê vàng ít bị biến động, đặc biệt vào mùa khô, cá khan hiếm, có lúc thương lái vào tận ao thu mua tới 60.000 – 70.000 đồng/kg.
Ngoài ra, đầu ra của cá trê vàng còn nhiều khó khăn do chỉ bán cho thương lái tại các chợ để tiêu thụ nội địa, số lượng mỗi lần thu mua tối đa chỉ một vài tấn sẽ gây khó cho người nuôi với số lượng lớn.
– Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản có nhiều biến động như hiện nay, nhất là con cá tra liên tục mất giá, vấn đề người nuôi chủ động tìm hiểu, chuyển đổi đối tượng nuôi phù hợp sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhất là đối với những hộ nuôi ít vốn, diện tích ao nhỏ không thích hợp để nuôi cá tra thương phẩm nếu chuyển sang nuôi cá trê vàng sẽ là một sự chọn lựa hợp lý.
Nguồn: Sưu tầm
Trà Vinh: Hiệu Quả Mô Hình Nuôi Cá Bông Lau
Duyên Hải (tỉnh Trà Vinh) có kế hoạch đưa cá bông lau vào danh sách vật nuôi trong chương trình đa dạng hóa con nuôi cho nghề thủy sản của địa phương.
Từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau là mùa cá bông lau sinh sản, cho nên nguồn cá giống trên các sông khá nhiều, muốn nuôi cá bông lau, người nuôi “đặt hàng” nguồn con giống từ những người làm nghề đăng lưới, đẩy xiệp ven sông, trên các bãi bồi dưới chân rừng đem về ương dưỡng đạt kích cỡ như cá tra giống mới thả nuôi. Nguồn con giống tự nhiên khá nhiều, người nuôi chỉ tốn công ương dưỡng.
Ông Lâm Văn Bình, ấp Giồng Bàng, xã Long Vĩnh (huyện Duyên Hải) cho biết: “Năm 2017, gia đình tôi chuyển sang nuôi cá bông lau, với diện tích ba ao, tổng diện tích gần 2 ha mặt nước, thả nuôi 20.000 con cá giống. Sau một năm nuôi, cá đạt trọng lượng từ 1,2 đến 1,5 kg, với giá bán 130.000 đồng/kg, trừ chi phí, lãi hơn 500 triệu đồng. Cá bông lau dễ nuôi, ít bệnh cho nên không tốn nhiều công chăm sóc; thức ăn cho cá chủ yếu từ nguồn cá vụn cũng dễ tìm và chi phí thấp. Ngoài việc tiếp tục nuôi cá bông lau, tôi còn ương dưỡng hơn 20.000 con cá bông lau giống để bán cho các hộ tại địa phương chuyển đổi nghề nuôi tôm. Cá bông lau giống được bán với giá 20.000 đồng/con”.
Ðại diện Phòng NN và PTNT huyện Duyên Hải cho biết: Ðây là mô hình nuôi thủy sản mới, có nhiều ưu thế để nhân rộng, tăng thu nhập cho nông dân. Hiện mô hình nuôi cá bông lau đã được nhân rộng thêm bảy hộ dân trong xã Long Vĩnh, với diện tích 3,2 ha, số lượng cá giống hơn 49.000 con. Phòng NN và PTNT huyện đã có kế hoạch hỗ trợ nông dân về mặt kỹ thuật từ việc dưỡng con giống đến quá trình nuôi nhằm bảo đảm tính hiệu quả. Ðơn vị cũng đang đề nghị Sở NN và PTNT tỉnh, Sở Công thương hỗ trợ thêm về xây dựng quy trình kỹ thuật, tìm đầu ra cho cá bông lau thương phẩm để khuyến khích các hộ dân nhân rộng mô hình thay thế diện tích nuôi tôm quảng canh, bán thâm canh vùng nước ngọt trong mùa mưa và nước lợ trong mùa nắng không bảo đảm hiệu quả.
Bạn đang xem bài viết Nuôi Cá Lóc Bông Bằng Sâu Canxi Hiệu Quả Cao trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!