Xem Nhiều 3/2023 #️ Nhân Giống Thành Công Cá Mú Trân Châu Tại Ninh Thuận # Top 9 Trend | Fcbarcelonavn.com

Xem Nhiều 3/2023 # Nhân Giống Thành Công Cá Mú Trân Châu Tại Ninh Thuận # Top 9 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Nhân Giống Thành Công Cá Mú Trân Châu Tại Ninh Thuận mới nhất trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Nhằm đa dạng đối tượng nuôi biển thích ứng với biến đổi khí hậu, tỉnh Ninh Thuận đã nghiên cứu nhân giống, sản xuất thành công giống cá mú Trân Châu, mở ra triển vọng phát triển kinh tế mới từ loại cá biển cho giá trị kinh tế cao này.

Cá mú Trân Châu giống do Trung tâm giống hải sản cấp I (thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận) nghiên cứu sản xuất thành công. Ảnh: Nguyễn Thành.

Vì vậy, để chủ động nguồn giống, Trung tâm giống hải sản cấp I Ninh Thuận (thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận) đã nghiên cứu quy trình kỹ thuật sản xuất giống cá mú Trân Châu nhằm phục vụ nhu cầu nuôi cá mú thương phẩm cho người dân trong và ngoài tỉnh. Từ đó, hạn chế tình trạng phụ thuộc vào nhập ngoại giống cá mú Trân Châu như hiện nay.

Ông Nguyễn Văn Dũng, Giám đốc Trung tâm giống hải sản cấp I Ninh Thuận cho biết, cá mú Trân Châu là con lai giữa cá mú Nghệ đực (Epinephelus lanceolatus) và cá mú Cọp cái (Epinephelus fuscoguttatus), đây là loại cá biển mới có giá trị kinh tế cao được các nước như Trung Quốc, Indonesia sản xuất giống thành công. Tại Việt Nam hiện mới có một số Viện nghiên cứu, đại học thủy sản bước đầu nghiên cứu, sản xuất.

Việc Ninh Thuận sản xuất thành công giống cá mú Trân Châu có nghĩa quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển giống cá này tại Việt Nam. Theo đó, nguồn cá thí nghiệm được sản xuất tại trại thực nghiệm của Trung tâm, quá trình sản xuất giống cá mú Trân châu trải qua 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 tuyển chọn trứng từ những cơ sở có uy tín, đảm bảo tỷ lệ thụ tinh và các yếu tố nhiệt độ, môi trường nước, độ mặn, độ kiềm…trước khi đưa trứng vào ấp.

Sau khi trứng nở 10 – 12 giờ, tiến hành thu những cá thể cá bột khỏe mạnh, loại bỏ cá bột yếu, dị hình, định lượng số lượng cá và thả vào ao nuôi. Tiếp tục đảm bảo môi trường nước, nhiệt độ, các yếu tố sinh hóa ao nuôi, cung cấp nguồn thức ăn ấu trùng phù hợp, đúng liều lượng cho cá. Duy trì sục khí suốt quá trình ương nuôi. Sau 25 – 30 ngày, chuyển cá vào trại sản xuất để phân cỡ và tiếp tục nuôi giai đoạn 2.

Số lượng cá bột đưa vào sản xuất thử nghiệm 100.000 con. Sau thời gian 2,5 tháng ương nuôi từ lúc trứng thụ tinh đến khi cá có kích cỡ 5 -7 cm (giai đoạn cá giống) đạt 5.000 con, tỷ lệ cá sống đến giai đoạn cá hương đạt 12%, đến giai đoạn cá giống 5%. Vừa qua, số giống cá mú Trân Châu sản xuất thành công đã hỗ trợ cho hai hộ nuôi để theo dõi khả năng thích nghi, sinh trưởng và hiệu quả kinh tế.

“Hiện nay, Trung tâm giống hải sản cấp I Ninh Thuận đang tiếp tục nghiên cứu kỹ thuật chăm sóc để nâng cao tỷ lệ sống trong sản xuất giống cá mú Trân Châu và tiến tới sản xuất nguồn giống đại trà. Đồng thời, hoàn thiện quy trình kỹ thuật nuôi cá mú Trân Châu thương phẩm để các hộ nuôi phát triển nhân rộng trong thời gian tới.”, ông Nguyễn Văn Dũng cho biết thêm.

Tại một số địa phương, cá mú Trân Châu được các hộ nuôi trong lồng bè hoặc ao đìa, bể. Sau 8 -10 tháng nuôi (tùy theo kích cỡ của cá giống) là có thể thu hoạch cá thịt, kích cỡ cá thương phẩm đạt từ 0,8 – trên 1kg/con. Do là loài cá mú lai nên cá mú Trân Châu có sức sinh trưởng nhanh, khả năng kháng bệnh cao, dễ chăm sóc hơn các loài cá mú khác (cá mú Chấm đen khoảng 14 tháng cho thu hoạch).

Loài cá mú Trân Châu có màu sọc rằn đen vàng, thịt cá dai, chắc và thơm ngọt, chứa nhiều chất dinh dưỡng dùng để chế biến nhiều món ăn ngon. Hiện tại, cá mú Trân châu chủ yếu được bán và chế biến trong các nhà hàng, khách sạn và luôn được coi là đặc sản. Tùy từng thời điểm cá mú Trân Châu tươi sống có giá giao động từ 200.000 đến trên 300.000 đồng/kg.

Cùng với sản xuất giống cá mú Trân Châu, hiện nay Trung tâm giống hải sản cấp I Ninh Thuận đang tiến hành sản xuất nguồn giống các loại cá biển có giá trị kinh tế cao khác như: Cá bớp, cá chẽm, cá chim vây vàng để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người nuôi.

Tỉnh Ninh Thuận có đường bờ biển dài hơn 105 km cùng với hệ thống đầm, vịnh, ao đìa đa dạng cộng thêm môi trường biển, nhiệt độ và độ mặn tại một số khu vực rất thích hợp nuôi các loại cá biển. Bên cạnh đó, tỉnh có khu quy hoạch để sản xuất giống lợ mặn và các trại giống dễ dàng sản xuất giống cá biển, cá mú. Từ những ưu điểm trên, nuôi cá mú Trân Châu sẽ có nhiều triển vọng phát triển tại Ninh Thuận nói riêng và Việt Nam nói chung.

Bán Cá Mú Giống Trân Châu Giống Loại 1

Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá mú

Cá mú là một trong những loài cá biển có giá trị kinh tế cao (4-68 USD/Kg). Chúng được nuôi ở nhiều nơi như: Trung Quốc (Đài Loan, Hồng Kông), Nhật Bản, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philippines, Brunei…

Nghề nuôi cq mú ở châu Á đã xuất hiện khá lâu, nhưng nguồn giống hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá mú đã bắt đầu ở Nhật Bản vào thập niên 60, các nước Đông Nam á vào cuối thập niên 70. Đến nay, hơn 10 loài cá mú đã được nuôi và sản xuất giống nhân tạo như cá mú đen chấm đen ( Epinephelus malabaricus), cá mú đen chấm nâu ( E. coioides), cá mú ruồi ( E. tauvina), cá mú đỏ ( E. akaara), cá màu đỏ ( E. awoara), cá mú cọp ( E. fuscoguttatus), cá mú nghệ ( E. lancelatus), E. aeneus, E. microdon, E. polyphekadion, E. tukula, cá mú chuột ( Cromileptes altivelis)…

Trên thế giới, cá mú nằm trong họ phụ Epinephelinae có 159 loài thuộc 15 giống, phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới nơi có rạn san hô, đá ngầm, ở vùng biển nước ấm. Mùa hè sống ở vên bờ, mùa đông di cư ra vùng xa bờ. Chúng có tập tíh dinh dưỡng ăn thịt, thức ăn gồm cá con, mực, giáp xác, thường ăn thịt lẫn nhau ở giai đoạn cá con. Ở Việt Nam, chúng phân bố từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan, tập trung nhiều ở ven biển miền Trung.

Tuổi thành thục lần đầu của cá mú lúc 3 tuổi. Trọng lượng thành thục lần đầu thay đổi tùy theo, kích thước nhỏ nhất là cá mú chuột (1kg), lớn nhất là cá mú nghệ (50-60kg). Mùa vụ sinh sản thay đổi theo từng loài và vùng địa lý, ở Đài Loan mùa sinh sản từ tháng 3 đến tháng 10, ở Trung Quốc từ tháng 4 đến tháng 10, ở Philippine và các tỉnh Nam Bộ cá có thể đẻ quanh năm.

Cá mú là loài cá tập tính chuyển giới tính, thông thường lúc còn nhỏ là cá cái khi lớn chuyển thành cá đực. Thời điểm chuyển giới tính thay đổi theo từng loài, loài cá mú đỏ (E. akaara) chuyển giới tính lúc có chiều dài 27-30cm, với trọng lượng 0,7-1kg, loài cá mú ruồi (E. tauvina) lúc có chiều dài 65-75cm, loài cá mú chuột lúc có trọng lượng trên 3kg.

Hệ số thành thục và sức sinh sản khác nhau ở các loài: ở cá mú đen chấm đen có hệ số thành thục cao nhất vào tháng 1 (5,2± 2,7%) và thấp nhất vào tháng 3. Sức sinh sản cao nhất vào tháng 12 là 3,18 ± 0,61 x 106 và thấp nhất vào tháng 8 là 0,13 x 106 trứng. Sức sinh sản của cá mú đỏ (E. akaara): 150.000 – 500.000 trứng, cá mú đen chấm nâu: 600.000 -1.900.000 trứng/kg.

Tốc độ tăng trưởng khác nhau giữa các loài: tốc độ tăng trưởng của một vài loài cá mú nuôi ở nước ta sau 1 năm: cá mú son (cephalopholis miniata) là 0,3-0,4kg, cá mú đen chấm đen: 0,8kg, cá mú đen chấm nâu 0,8kg, cá mú ruồi: 1-1,2kg, cá mú nghệ: 3-4kg.

Sinh sản nhân tạo Thu thập và thuần dưỡng cá bố mẹ:

Cá bố mẹ được đánh bắt ngoài tự nhiên hoặc thu gôm từ ao, lồng nuôi thịt. Cá bố mẹ từ ao hay lồng nuôi dễ thích nghi với điều kiện nuôi nhốt. Không sử dụng cá đánh bắt bằng chất cyanide, nên dùng những cá bắt bằng bẫy tre để làm cá bố mẹ.

Cá bắt được nên vận chuyển ngay đến trại giống hay lồng nuôi. Không cần gây mê cá nếu vận chuyển trong các bồn chứa hay trong các dụng cụ có máy sục khí. Khi đến trại giống cá được xử lý bằng formol 25ppm và kháng sinh Oxytetracyline với nồng độ 2mg/l tắm cá trong 24 giờ, hoặc tiên 20mg/kg cá phòngchống nhiễm do vi khuẩn. Bể nuôi vỗ hình tròn có thể tích 100-150 m 3. Sử dụng nguồn nước biển sạch có độ mặn 30-33 ‰ , nhiệt độ nước 28 – 30 độ C. Trước khi cấp vào bể nuôi, nên được lọc qua cát.

Mật độ nuôi vỗ 1kg cá / m 3. Tỉ lệ đực cái từ 1/1 đến 1/2. Chế độ thay nước từ 50-100% mỗi ngày.

Nuôi vỗ cá bố mẹ là khâu quan trọng, kỹ thuật nuôi hợp lý ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ thành thục, tỷ lệ cá đẻ, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, và tỷ lệ sống của cá con. Sự thành thục có quan hệ chặt chẽ với chế độ dinh dưỡng, không chỉ phụ thuộc vào khối lượng thức ăn mà còn phụ thuộc vào chất lượng thức ăn.

Thức ăn nuôi vỗ là cá nục, cá bạc má, cá thu… khẩu phẩn 1-2% thể trọng/ngày. Thức ăn có hàm lượng prôtêin trên 40%, lipid 6-10%, bổ sung thêm vitamin E, C và dầu cá. Việc bổ sung nguồn chất béo giàu các acid béo không no (Hufa) có ảnh hưởng đến sự thành thục cá bố mẹ.

Kính thích thành thục

Tuổi thành thục của cá mú là 3-5 năm, cá rất dễ thành thục trong điều kiện nuôi nhốt. Ngoài ra có thể áp dụng kỹ thuật cấy hỗn hợp Cholestrerol, LHRH và 17 – a Methyltestosterone kích thích cá thành thục sớm và đồng loạt.

Thông thường cá mú lúc còn nhỏ là cái, khi lớn chuyển thành đực. Trong thực tế sản xuất thường rất khan hiếm cá đực, phương pháp tiêm hoặc cấy 17 – a Methyltestosterone được áp dụng để tăng số lượng cá đực.

Chọn cá cho đẻ:

Tiêuchuẩn chọn cá thành thục sinh dục như sau: một cá cái thành thục khi đường kính trứng đạt 0,4-0,5mm, đối với cá đực khi vuốt nhẹ vùng gần lỗ sinh dục xuất hiện sẹ (tinh dịch) màu trắng đục. Các đặc điểm trên chứng tỏ cá đã sẵn sàng tham gia sinh sản.

Chu kỳ trăng ảnh hưởng đến sự đẻ trứng của cá, cá thường đẻ vào thời điểm vài ngày trước hoặc sau kỳ trăng non hoặc trăng tròn. Cá có thể đẻ tự nhiên không cần tiêm thuốc kích thích. Vaà ngày trước hoặc sau trăng tròn hoặc trăng non, thay nườc, tạo dòng chảy liên tục. Nguồn nước mới, thay đổi nhiệt độ và dòng chảy là những tác nhân kích thích cá đẻ trứng và phóng tinh.

Sau khi cá đẻ, trứng thụ tinh có đường kính 0,8-0,9mm, nổi lơ lửng gần mặt nước. Nước biển được bơm vào bể đẻ liên tục tạo thành dòng chảy tràn vào bể thu trứng bên trong đặt một giai thu trứng mắt lưới 0,2-0,3mm. Trứng thụ tinh được chuyển vào bể ấp ngay trong bể ương. Trứng nở sau 17-18 giờ ở nhiệt độ 28-30 độ C và độ mặn 30-33‰ .

Cá thường đẻ trứng vào ban đêm, trứng được thu gom vào sáng sớm ngày hôm sau. Trứng thu từ bể đẻ về thường có tảo và các chất bẩn, vì thế trước khi đưa vào ấp, trứng phải được lọc qua lưới có đường kính mắt lướt 1mm. Mật độ trứng ấp 4000 – 5000 trứng/ m3 . Sục khí vừa đủ tạo sự tuần hoàn nước trong bể ấp trong thời gian ấp. Ở nhiệt độ 28-30 độ C, trứng sẽ nở trong vòng 16-19 giờ.

Ương cá bột thành cá giống

Chuẩn bị để ương:

Cá bột có thể ương trong bể ximăng, bể composit, giai đặt trong bè hay ao đất. Bể ương có dạng hình chữ nhật hoặc tròn, thể tích từ 4 – 10m3 , sâu 1-1,5m. Nước biển dùng để ương cá bột cần phải lọc sạch, xử lý Chlorin 30ppm. Nước biển có độ mặn 30-34‰ , nhiệt độ nước 28-30 độ C.

Ương cá bột:

Có thể ấp trứng ngay trong bể ương hoặc ấp trứng trong bể khác sau khi nở cá bột được chuyển vào bể ương. Mật độ cá bột ương tùy thuộc hệ thống từ 4-5con/L hoặc ở mật độ cao 20-30con/L. Sau khi nở 60 giở, cá bột bắt đầu ăn thức ăn ngoài, thức ăn thích hợp là luân trùng – SS, mật độ 5-10 cá thể/ml. Tảo Chlorella được đưa vào bể ương duy trì ở mật độ 3×105/ml để giữ chất lượng nước tốt đồng thời cũng làm thức ăn cho luân trùng. Luân trùng trước khi cho cá bột ăn cần phải được làm giàu acid béo không no (Hufa).

Từ ngày tuổi thứ 6, đưa luân trùng L vào bể ương thay thế cho luân trùng SS. Từ ngày tuổi thứ 15-20, bổ sung ấu trùng Artemia 1-3 cá thể/ml. Từ ngày tuổi thứ 30-35, cá bột có thể ăn được Artemia trưởng thành, Moina hoặc các động vật phù du lớn hơn.

Chế độ thay nước: Từ ngày đầu đến ngày tuổi thứ 10 chỉ bổ sung thêm nước mới, không thay nước. Từ ngày tuổi thứ 10-20, thay nước 10-20% ngày và tăng lên 30%. Từ ngày tuổi thứ 30-45, thay nước 40%/ngày và tăng lên 50% cho đến giai đoạn cá giống.

Cá Mú Trân Châu Hiệu Quả Kinh Tế Cao

I. Vận chuyển cá giống

Để giảm thiểu hao hụt và đảm bảo sức khỏe cho cá khi phải vận chuyển đi xa, cần phải biết cách xử lý cá trước khi vận chuyển đồng thời nắm rõ các biện pháp kỹ thuật vận chuyển.

Cá mú giống

1. Xử lý cá trước khi vận chuyển

Cá mú con đánh bắt ngoài tự nhiên phải được nhốt tạm từ 1-2 tuần trong bể hoặc trong thùng có sục khí liên tục. Hai ngày đầu không cần cho ăn. Từ ngày thứ 3, cho ăn ít và tăng liều lượng lên dần. Sau đó dùng các học lưới với kích cỡ mắt lưới khác nhau để phan loại cá theo các kích cỡ sau đây:

– Cá bột nhỏ: 2,5-5cm

– Cá bột lớn: 5-7,5cm

– Cá giống nhỏ: 7,5-10cm

– Cá giống trung bình: 10-12,5cm

Sau khi phân loại, nên tắm cho cá bằng nước ngọt (từ 15-30 phút) để diệt các vi sinh vật có hại, sau đó mới vận chuyển về nơi ương nuôi. Lưu ý những con bị thương phải được nuôi dưỡng trong bể riêng, khi chúng hồi phục hoàn toàn thì mới vận chuyển về ao ương nuôi.

Với cá ương trong bể, thời điểm thu hoạch cá thích hợp nhất là vào lúc sáng  sớm hoặc chiều mát. Dùng vợt mềm vớt cá cho vào giai hoặc bể nước sạch đã chuẩn bị trước. Thao tác vớt phải nhanh và nhẹ nhàng.

Trước khi vận chuyển, phải nhốt cá trong giai nước sạch với mật độ dày để cho chúng quen dần với diều kiện sống chật hẹp và thải bớt phân. Có thể nhốt từ 8-12 giờ. Lưu ý: trong khoảng thời gian nhốt, không nên cho cá ăn.

2. Kỹ thuật vận chuyển cá

Trong quá trình vận chuyển cá giống, tỷ lệ sống và mức độ an toàn của cá phụ thuộc rất nhiều vào kỹ thuật vận chuyển. Trong đó các yếu tố như dụng cụ đựng cá, phương tiện vận chuyển, nhiệt độ thời tiết, lượng oxy hòa tan trong nước, khí độc trong mưa, thời gian vận chuyển…đều ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của cá. Áp dụng đúng biện pháp kỹ thuật sẽ giúp nâng cao tỷ lệ sống cho cá.

Phải ngưng cho cá ăn trong 24 giờ trước khi vận chuyển, đồng thời nên tắm cho cá bằng thuốc tím 0,15ppm (từ 5-10 phút) hoặc tắm bằng dung dịch Furacin 0,05% (từ 3-5 phút).

Có hai phương pháp vận chuyển cá: vận chuyển kín và vận chuyển hở.

– Phương pháp vận chuyển kín: vận chuyển cá bằng túi nilon có bơm oxy với áp suất thích hợp.

– Phương pháp vận chuyển hở: vận chuyển cá bằng thùng phuy, thùng tôn, thùng nhựa hoặc sót nilon.

* Phương pháp vận chuyển bằng túi nilon hoặc can nhựa được xem là phương pháp tiên tiến cho hiệu quả cao, vì vậy mà được rất nhiều người áp dụng.

* Phương pháp vận chuyển kín: Thường chứa cá trong túi nilon có bơm oxy rồi vận chuyển bằng các phương tiện như xe ô tô, máy kéo, ba gác máy, ghe, thuyền…

* Đóng túi: Dùng hai túi nilon có đáy bằng, cho vào khoảng 8 lít nước biển, nước được làm lạnh ở nhiệt độ 23-250C. Nếu vận chuyển trong thời gian dưới 8 tiếng thì nên cho lượng nước chiếm 4/5 túi. Nếu vận chuyển trong thời gian trên 8 tiếng thì nên cho lượng nước chiếm 2/3 túi. Vuốt hết không khí trong túi ra, bơm oxy vào, sau đó cho cá vào, tiếp tục bơm oxy vào đến khi căng túi, buộc túi lại. Cho túi cá vào thùng xốp, đặt các bao đá xung quanh để làm mát cá. Dán kín thùng xốp bằng băng keo rồi đưa lê phương tiện vận chuyển. Nên vận chuyển cá trên phương tiện có máy điều hòa nhiệt độ.

Mật độ cá trong túi: Mật độ cá trong túi nilon tùy thuộc vào kích cỡ của cá. Cá cỡ 2,5cm, nhốt từ 100-150con/lít nước; cá cỡ 5cm, nhốt từ 30-50con/lít; cá 7cm, nhốt từ 10-15con/lít.

Lưu ý: Nên vận chuyển cá lúc trời mát, tốt nhất là vào sáng sớm. Nếu vận chuyển cá trong mùa nắng thì phải che đậy kỹ càng, không để ánh nắng trực tiếp chiếu vào túi nilon vì có thể làm tăng nhiệt độ nước trong túi và dẫn đến chết cá. Sau 8 tiếng vận chuyển phải bơm oxy. Sau 16 tiếng phải thay nước và bơm oxy. Sau 24 tiếng phải cho cá nghỉ ngơi trong vèo lưới hay trong bể từ 8-12 giờ. Muốn vận chuyển tiếp phải đóng túi lại. Tổng thời gian vận chuyển cá không nên quá 50 giờ. Khi vận chuyển cá đến nơi, thao tác mở thùng phải nhẹ nhàng nhằm tránh làm cá hoảng sợ. Trước khi thả cá, phải cân bằng nhiệt độ và độ mặn nước ao và nước trong túi cá.

II. Kỹ thuật nuôi cá mú thịt

       1. Chuẩn bị ao nuôi

       * Chọn vị trí ao

       Ao nên nằm ở vùng đất sét hay cát pha sét, tránh vùng đất phèn. Mực nước thủy triều ít nhất là 80cm. Phải có ao lắng để xử lý nước thải.

       Ao nằm ở nơi có nhiều ánh sáng mặt trời, không bị bóng cây che khuất. Ao gần nguồn nước, gần nhà để tiện theo dõi và quản lý.

       * Điều kiện ao nuôi

       – Tùy theo từng điều kiện mà chọn ao có diện tích phù hợp, có thể từ 100m2 trở lên. Ao có độ sâu từ 1,5-2m. Độ sâu mực nước ao từ 1,2-1,5m. Bờ ao cao hơn mực nước ao trong năm, khoảng 0,5m để chống ngập.

       – Cống, bọng phải được làm chắc chắn và thuận tiện cho việc cấp, thoát nước. Bờ ao phải đảm bảo không bị sạt lở, rò rỉ. Đáy ao bằng phẳng và dốc về bọng nước. Nếu có điều kiện thì trải bạt xung quanh bờ ao để ngăn cá đào hang. Bọng phải có lưới chắn để không cho cá ra ngoài cũng như không cho địch hại vào ao.

       – Nguồn nước phải gần ao để thuận tiện cho việc cấp nước. Nước phải sạch sẽ, không bị ô nhiễm và phải chủ động suốt quá trình nuôi. Yêu cầu về chất lượng nước: nhiệt độ= 25-32oC, độ mặn= 20-30‰, pH= 7,5-8,5, độ trong = 30-45cm, hàm lượng oxy hòa tan= 4-8mg/L, NH3 ≤0-0,008mg/L, độ kiềm= 60-100mg/L.

       – Thả một số ống tre hoặc ống nhựa (đường kính 10-20cm) vào ao để làm nơi cho cá ẩn nấp nhằm hạn chế cá tấn công lẫn nhau đồng thời giúp việc kiểm tra và thu hoạch cá được đễ dàng.

       * Cải tạo ao

– Tháo nước cạn ao và dọn sạch rác, bắt hết cá tạp và địch hại như: rắn, cua, ếch…Có thể diệt tạp bằng Rotenon (liều lượng 40kg/ha), bánh bã trà (liều lượng 150-200kg/ha). Vét bớt lớp bùn thối lâu ngày ở đáy ao. Tu bổ lại bờ ao, cống rãnh. San lắp các lỗ mọi rò rỉ.

          – Rải vôi bột xuống đáy ao và xung quanh ao để diệt khuẩn và điều chỉnh độ pH, liều lượng sử dụng: 10-15kg/100m2. Sau đó phơi nắng đáy ao khoảng 3-4 ngày.

– Lấy nước: Lần đầu chỉ lấy nước ở mức 0,4-0,5cm, sau đó bón phân rồi lấy đủ nước. Lưu ý: nước phải chảy qua lưới lọc để ngăn cá tạp và địch hại.

          – Bón phân cho ao: Sau khi lấy nước lần đầu, tiến hành bón phân để gây màu nước và tạo nguồn thức ăn tự nhiên. Có thể bón phân chuồng (2tấn/ ha), cách bón: rải đều phân khắp đáy ao; phân urê (25kg/ha); hoặc phân Diamonium phosphat (50kg/ha), cách bón: hòa tan phân trong nước rồi tưới đều khắp đáy ao.

       – Sau 4-5 ngày bón phân là có thể thả giống.

2. Chọn và thả cá giống        

       – Nên chọn cá giống có kích cỡ càng lớn càng tốt, từ 8-15cm. Cá giống càng lớn thì tỷ lệ hao hụt càng ít. Tốt nhất là lấy cá giống sinh sản nhân tạo ở các trại cá uy tín, hạn chế lấy cá từ nguồn khai thác tự nhiên.

       – Chọn cá giống khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, bơi lội nhanh nhẹn, không bị say sát, không bị dị hình hay dị tật.

       – Mật độ nuôi: nên thả với mật độ thưa, khoảng 2-3con/m2.

       Cách thả cá:

       Nên thả cá lúc trời mát, tốt nhất là vào sáng sớm hoặc chiều tối. Trước khi thả cá xuống ao, nên cân bằng nhiệt độ và độ mặn. Trường hợp cá giống đựng trong bọc nilon, thì phải ngâm bọc cá trong nước ao khoảng 10-15 phút để nhiệt độ cân bằng với nhiệt độ nước ao, sau đó mới mở bọc và thả cá ra từ từ. Trường hợp cá giống đựng trong thùng hoặc can nhựa…thì trước khi cho cá vào bể, phải cho chúng qua một cái chậu lớn, từ từ thêm nước ao vào chậu để chúng thích nghi dần với điều kiện mới, sau khoảng 15 phút mới thả cá vào ao. Tuyệt đối không cho cá vào ao một cách đột ngột hoặc đứng trên bờ đổ cá xuống ao vì sẽ làm cho cá dễ bị sốc và chết.

       3. Cho ăn và chăm sóc

       a. Thức ăn

       – Nhiều người dùng thức ăn là cá rô phi: thả cá rô phi (5000-10000 con/ha) trước khi thả cá mú 1 tháng. Khi thả cá mú vào ao thì chúng có thức ăn ngay.

Cá mú thịt

       – Ngoài ra cũng có thể cho ăn bằng các loại cá tạp tươi cắt nhỏ như cá cơm, cá trích, cá nục, cá liệt…

       b. Cách cho ăn

          – Để cá dễ ăn và dễ quản lý thức ăn, nên cho thức ăn vào sàn và đặt vào nhiều vịu trí trong ao cho cá ăn, nên đặt sàn ở 4 góc ao và giữa ao, sàn cách mặt nước khoảng 0,5-0,6m.

          – Thức ăn của cá (các loại cá tạp) phải được rửa sạch, cắt thành từng miếng nhỏ vừa với cỡ miệng cá ăn.

          – Mỗi ngày cho ăn hai lần, vào buổi sáng (7 giờ) và chiều mát (17 giờ); khẩu phần ăn hằng ngày bằng 7-10% tổng trọng lượng có trong ao (cứ 100 kg cá thì cho 7-10kg thức ăn), và giảm dần theo sự tăng trọng của cá. Khi cá đạt 200g/con trở lên, thì cho ăn ngày một lần và khẩu phần ăn giảm xuống còn 5%.

          – Nên cho cá ăn đúng giờ và cho ăn từ từ.

– Định kỳ trộn Vitamin C và Premix khoáng vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng bệnh cho cá. Lượng Vitamin C và Premix chiếm khoảng 2% lượng thức ăn.

c. Chăm sóc

       – Thường xuyên theo dõi cá ăn để đánh giá được mức ăn của chúng mà điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp tránh tình trạng thiếu hoặc thừa. Thiếu thức ăn thì cá chậm lớn, thừa thức ăn thì sẽ gây ô nhiễm nước và ảnh hưởng đến sức khỏe của cá.

       – Duy trì màu xanh nước ao bằng cách định kỳ bón thêm phân chuồng. Khoảng 15 ngày bón 1 lần, liều lượng: 10-15kg/100 m2 ao.

       – Định kỳ (1 tuần 2 lần) thay nước vào ao, mỗi lần thay khoảng 20-40% lượng nước ao, tùy theo chất lượng ao. Khi thấy nước có màu xanh quá đậm, màu xám hay có mùi hôi do tảo hoặc thức ăn phân hủy thì phải thay nước ngay. Có thể dùng nước thủy triều hoặc nước bơm từ ao chứa để thay. Khi thay nước, nên xả phần nước ở đáy rồi bơm nước mới vào. Nước dẫn vào ao phải qua lưới chắn để ngăn cá tạp và địch hại.

       – Thường xuyên kiểm tra các yếu tố chất lượng nước như nhiệt độ, độ mặn, độ pH…, và phải giữ cho các chỉ số này luôn ổn định.

       – Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá, nếu thấy có dấu hiệu bất thường thì phải kiểm tra ngay để xử lý kịp thời.

       – Thường xuyên kiểm tra bờ ao, cống rãnh để khắc phục kịp thời khi bị sạc lở, rò rỉ.

       – Hàng tuần lọc và phân đàn kích cỡ cá để tránh tình trạng cá lớn ăn cá bé đồng thời tăng không gian sống cho chúng.

       4. Thu hoạch

       Sau 6-10 tháng nuôi (tùy theo kích cỡ của cá giống) là có thể thu hoạch cá thịt, kích cỡ cá thường phẩm từ 0,6-1kg/con. Có thể thu tỉa những con cá lớn hoặc thu hoạch toàn bộ để lấy ao nuôi vụ khác.

       Trước khi thu hoạch 2 giờ, nên khuấy mạnh nước để tránh trường hợp cơ của cá bị cứng. Đặt một lồng lưới trong ao để giữ tạm cá. Chuẩn bị các thau, chậu máy sục khí để đựng và bảo quản cá.

       Thu hoạch toàn bộ: Tháo bớt một lượng nước ao, dùng lưới đánh bắt vài lần, sau đó tháo cạn nước và bắt toàn bộ. Nên thu hoạch vào lúc trời mát để cá ít bị mệt. Cá sau khi thu hoạch thì cho vào các dụng cụ chứa để rửa sạch bùn và xả bớt chất thải, sau đó chuyển đến nơi tiêu thụ. Khi phải nhốt cá trong các dụng cụ chứa quá lâu thì cần phải sục khí để chúng không bị ngợp.

Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.

Đh Cần Thơ: Sản Xuất Nhân Tạo Thành Công Giống Cá Bóp

Cá bóp bố mẹ được nuôi vỗ trong lồng trên biển tại quần đảo Nam Du, tỉnh Kiên Giang. Cá bố mẹ 10-20 kg/con được chủ động kích thích cho sinh sản nhân tạo bằng hormone và sinh sản tự nhiên. Mỗi cá mẹ đẻ được 300.000-900.000 trứng. Cá sau khi nở được ương trên bể tại khoa thủy sản ĐH Cần Thơ

Theo chúng tôi Nguyễn Thanh Phương (Trưởng Khoa Thủy Sản – Đại Học Cần Thơ), các đợt ương nuôi cá bột bằng các phương pháp khác nhau đã thu được kết quả rất tốt. Cá bóp là một trong những loài cá quan trọng trong phát triển nghề nuôi cá lồng ven biển và hải đảo. Cá lớn rất nhanh, có thể đạt 5-8 kg sau một năm nuôi, thịt ngon, có giá trị xuất khẩu (cá thịt trên thị trường hiện nay giá 200.000 đồng/kg).

Tuy nhiên, người dân hiện chỉ nuôi cá trong lồng trên biển và dựa chủ yếu vào nguồn cá giống khai thác tự nhiên nên gặp nhiều khó khăn về số lượng và chất lượng con giống.

Cá bóp là một trong những loại nuôi biển quan trọng trong phát triển nghề nuôi cá lồng ven biển và hải đảo. Cá lớn rất nhanh, có thể đạt 5- 8kg sau 1 năm nuôi; thịt cá bóp ngon, có giá trị xuất khẩu cao.

Lãnh đạo Khoa Thủy sản (ĐH Cần Thơ) cho biết, nghề nuôi cá bóp trong lồng trên biển ở Kiên Giang chủ yếu dựa vào nguồn cá giống khai thác tự nhiên nên gặp nhiều khó khăn về số lượng và chất lượng con giống.

Sau hơn 1 năm nghiên cứu, bằng nhiều phương pháp khác nhau, việc ương nuôi cá bột cá bóp đã đạt kết quả khả quan góp phần vào việc phát triển loại cá này.

Cá bóp bố mẹ từ 10- 20kg/con được chủ động kích thích sinh sản nhân tạo và mỗi con cá mẹ đẻ ra khoảng 300.000- 900.000 trứng. Khi trứng nở, cá con được đưa về ương trên bể trong Khoa Thủy sản.

Cá bột sau 3 tuần ương nuôi đạt tỷ lệ sống 10-14%, dài từ 3- 4cm, năng suất đạt khoảng 700- 1.400 con/m 3 nước ương. Hiện cá bóp giống đang tiếp tục được ương trong hệ thống bể tuần hoàn có tăng trưởng và tỷ lệ sống rất tốt; cá sau 1,5 tháng tuổi đạt 13-15cm.

Theo lãnh đạo Khoa Thủy sản (ĐH Cần Thơ), trong thời gian tới, khoa sẽ phối hợp cùng các cơ quan chuyên môn của tỉnh Kiên Giang triển khai ứng dụng sản xuất giống nhân tạo và xây dựng mô hình nuôi để phát triển nhanh và bền vững nghề nuôi cá bóp trên biển ở các tỉnh ven biển trên cả nước.

Bạn đang xem bài viết Nhân Giống Thành Công Cá Mú Trân Châu Tại Ninh Thuận trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!