Cập nhật thông tin chi tiết về Ngành Cá Cảnh Việt Nam: Nhiều Lợi Thế Để Tiến Xa – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam mới nhất trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nghề kinh doanh và thú chơi cá cảnh đã hình thành từ lâu ở Việt Nam, tuy nhiên nó mới chỉ mang tính tự phát. Qua tìm hiểu, giao lưu tham gia triển lãm cá cảnh của các cơ sở sản xuất, kinh doanh với một số nước trên thế giới, cá cảnh Việt Nam đã nhận được sự ưa chuộng.
Ngày nay, đất nước phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng, một số doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh đã chủ động đưa cá cảnh Việt Nam thâm nhập vào thị trường quốc tế.
Riêng đối với TP Hồ Chí Minh thì sao, thưa ông?
Nhìn chung, nghề nuôi, sản xuất cá cảnh ở TP Hồ Chí Minh có từ rất lâu và từng có thời kỳ giữ vai trò nhất định ở khu vực Đông Nam Á. Đầu năm 1975, do hậu quả chiến tranh, điều kiện kinh tế nước ta quá khó khăn, mọi tiềm lực dồn cho việc khôi phục đất nước, chú trọng phát triển các ngành công, nông nghiệp nên nghề nuôi, sản xuất, kinh doanh cá cảnh dần dần giảm sút.
Những năm gần đây, mức sống của người dân thành phố ngày càng phát triển, nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc cơ bản đã được giải quyết thì việc vui chơi, sản xuất, kinh doanh cá cảnh bắt đầu nhộn nhịp trở lại và có chiều hướng phát triển. Người dân trong nghề nuôi cá cảnh đã chủ động tìm, cải tạo giống lạ – đẹp và tìm thị trường nước ngoài cho cá cảnh.
Trên địa bàn thành phố có khoảng 200 hộ làm nghề nuôi, sản xuất cá cảnh, tập trung nhiều ở các quận 8, 12, Gò Gấp, Bình Thạnh, huyện Bình Chánh, Củ Chi và rải rác ở quận 9. Gần 100% các hộ sản xuất cá cảnh nước ngọt với diện tích 15 – 20 ha mặt nước ao nuôi, 25.000 – 30.000 m2 bể xi măng và khoảng 3.000 m2 bể kiếng. Hàng năm, số lượng sản xuất và tiêu thụ khoảng 90 triệu con. Doanh số bình quân hằng năm mỗi hộ 80 – 100 triệu, thấp nhất là 20 triệu đồng, cao nhất là 300 triệu đồng.
Đối tượng sản xuất được xếp vào hai loại chính là: Cá đá (xiêm, lia thia, phướn…) và cá làm cảnh (được xếp làm 3 nhóm: Nhóm cá đại trà có nhiều hộ sản xuất: Bảy màu, hồng kim, hắc kim, tỳ bà, ông tiên, ba đuôi, tai tượng Phi Châu; Nhóm cá ít hộ sản xuất: Cá dĩa, cá la hán, chép Nhật…; Nhóm mới khai thác tự nhiên làm cảnh: Cá nàng hai (còm), nâu, long tong, sặc…)
Hiện, trên địa bàn thành phố có khoảng 100 – 120 cửa hàng và địa điểm buôn bán lẻ cá cảnh. Trong đó phải kể đến là chợ cá cảnh Lưu Xuân Tín ở quận 5 và Nguyễn Thông ở quận 3, Cộng Hòa ở Tân Bình. Ngoài ra, rải rác ở các quận, huyện khác trong thành phố như quận Thủ Đức, quận 9, huyện Bình Chánh.
Sản xuất cá cảnh ở Việt Nam chủ yếu do tự phát – Ảnh: CTV
Theo ông, tiềm năng để phát triển ngành cá cảnh Việt Nam nói chung, TP Hồ Chí Minh nói riêng là gì?
Việt Nam là quốc gia nằm trong 3 khu vực (Nam Mỹ, Phi Châu và Đông Nam Á) có nguồn cá cảnh nổi tiếng của thế giới. Khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam thích hợp phát triển nhiều loài cá cảnh nội địa và nhiều loài cá đẹp quý hiếm (cả nước mặn và ngọt). Và, hầu như các loại cá cảnh trên thế giới đều đã có ở Việt Nam.
Riêng đối với thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành cá cảnh. Trước hết phải kể đến là khí hậu nhiệt đới nên có thể sản xuất được nhiều loài cá cảnh và sản xuất được quanh năm. Thức ăn tự nhiên – nguồn thực phẩm thiết yếu của nhiều loài cá cảnh, dồi dào trong các hệ thống sông rạch. Giá thành sản xuất thấp do giá nhân công, thức ăn và chi phí khấu hao trang thiết bị thấp (vì sản xuất được quanh năm).
Thêm vào đó, với vị trí là trung tâm kinh tế năng động, TP Hồ Chí Minh có lợi thế trong việc xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại. Ngoài ra, đây cũng là nơi tập trung đông nghệ nhân nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh và yêu nghề…
Với những tiềm năng này, liệu ngành cá cảnh Việt Nam có thể phát triển như các quốc gia khác, chẳng hạn như Singapore, Malaysia… không, thưa ông?
Ngành cá cảnh Việt Nam có thể phát triển mạnh như Singapore, Malaysia nếu chúng ta thực sự quan tâm và xác định đúng hướng, vì Việt Nam hội đủ các yếu tố về điều kiện tự nhiên, vùng phân bố của các loài cá cảnh.
Đồng thời cũng cần phải có sự đầu tư thích đáng về chính sách, hoạch định, phải có chiến lược phát triển cho nghề cá cảnh. Trong đó cần chú ý đến các yếu tố về giống, bảo tồn gen, lai tạo và chủ động hội nhập thị trường.
Vậy còn những khó khăn, thách thức thì sao?
Bên cạnh những thuận lợi, ngành cá cảnh Việt Nam vẫn còn gặp phải một số khó khăn như: Chưa nắm bắt và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của các thị trường châu Âu và Mỹ. Sản xuất không ổn định do phát triển tự phát. Thiếu thông tin về khoa học kỹ thuật, nhất là thông tin về thị trường đối với các nhà sản xuất mới. Sản xuất quy mô nhỏ, riêng lẻ, nhất là sản xuất thiếu kế hoạch sẽ không đáp ứng được nhu cầu thị trường cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Vấn đề ô nhiễm nguồn nước, đô thị hóa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển. Việc xuất khẩu qua trung gian gây nhiều thiệt hại, rủi ro cho nhà sản xuất, kinh doanh. Các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ luôn có các hàng rào kỹ thuật nhằm hạn chế việc xuất khẩu của các nước khác.
Để đưa ngành cá cảnh Việt Nam phát triển tương xứng với tiềm năng, theo ông cần phải làm gì?
Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước nên có trách nhiệm quản lý, kiểm soát, định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh nhập các giống mới phục vụ nghiên cứu sản xuất con giống…
Thứ hai, phổ biến, xúc tiến thương mại thị trường trong nước và xuất khẩu. Công tác nghiên cứu thị trường, đặc biệt là thị hiếu người tiêu dùng cần được quan tâm. Thường xuyên tổ chức tham gia các hội thi về cá cảnh trong và ngoài nước nhằm quảng bá sản phẩm, tạo đầu ra cho người nuôi cá cảnh, giới thiệu sản phẩm cá cảnh cho các thị trường xuất khẩu.
Thứ ba, tăng cường nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, chuyên thực hiện việc nghiên cứu, lai tạo giống cá cảnh mới.
Thứ tư, có chính sách cho phép các trung tâm nghiên cứu, khu nông nghiệp công nghệ cao chủ động nhập các giống mới về lai tạo và xuất khẩu các giống cá cảnh ngoại lai nhưng không được tiêu thụ thị trường trong nước do ngại ảnh hưởng cân bằng sinh thái.
Thứ năm, xây dựng kho tư liệu về dịch tễ nhằm kiểm soát và khống chế dịch bệnh từng vùng, từng loài khi xảy ra dịch bệnh; Phát triển các kỹ thuật chuẩn đoán, điều trị và kiểm soát dịch bệnh trên cá cảnh, đảm bảo các vấn đề an ninh sinh học trong việc nuôi cá cảnh.
Thứ sáu, Nhà nước phải có chính sách thỏa đáng để khuyến khích phát triển, có chiến lược phát triển và tích cực tạo nên các yếu tố pháp lý kỹ thuật để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá cảnh có điều kiện tiếp cận thị trường mới.
Ngoài ra cũng nên miễn thuế nhập giống cá cảnh. Và cuối cùng cũng cần rà soát các văn bản quản lý động vật ngoại lại cho phù hợp với việc kinh doanh cá cảnh.
Ngành Cá Cảnh Việt Nam: Nhiều Lợi Thế Để Tiến Xa
Ngày nay, đất nước phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng, một số doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh đã chủ động đưa cá cảnh Việt Nam thâm nhập vào thị trường quốc tế.
Riêng đối với TP Hồ Chí Minh thì sao, thưa ông?
Nhìn chung, nghề nuôi, sản xuất cá cảnh ở TP Hồ Chí Minh có từ rất lâu và từng có thời kỳ giữ vai trò nhất định ở khu vực Đông Nam Á. Đầu năm 1975, do hậu quả chiến tranh, điều kiện kinh tế nước ta quá khó khăn, mọi tiềm lực dồn cho việc khôi phục đất nước, chú trọng phát triển các ngành công, nông nghiệp nên nghề nuôi, sản xuất, kinh doanh cá cảnh dần dần giảm sút.
Những năm gần đây, mức sống của người dân thành phố ngày càng phát triển, nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc cơ bản đã được giải quyết thì việc vui chơi, sản xuất, kinh doanh cá cảnh bắt đầu nhộn nhịp trở lại và có chiều hướng phát triển. Người dân trong nghề nuôi cá cảnh đã chủ động tìm, cải tạo giống lạ – đẹp và tìm thị trường nước ngoài cho cá cảnh.
Trên địa bàn thành phố có khoảng 200 hộ làm nghề nuôi, sản xuất cá cảnh, tập trung nhiều ở các quận 8, 12, Gò Gấp, Bình Thạnh, huyện Bình Chánh, Củ Chi và rải rác ở quận 9. Gần 100% các hộ sản xuất cá cảnh nước ngọt với diện tích 15 – 20 ha mặt nước ao nuôi, 25.000 – 30.000 m 2 bể xi măng và khoảng 3.000 m 2 bể kiếng. Hàng năm, số lượng sản xuất và tiêu thụ khoảng 90 triệu con. Doanh số bình quân hằng năm mỗi hộ 80 – 100 triệu, thấp nhất là 20 triệu đồng, cao nhất là 300 triệu đồng.
Đối tượng sản xuất được xếp vào hai loại chính là: Cá đá (xiêm, lia thia, phướn…) và cá làm cảnh (được xếp làm 3 nhóm: Nhóm cá đại trà có nhiều hộ sản xuất: Bảy màu, hồng kim, hắc kim, tỳ bà, ông tiên, ba đuôi, tai tượng Phi Châu; Nhóm cá ít hộ sản xuất: Cá dĩa, cá la hán, chép Nhật…; Nhóm mới khai thác tự nhiên làm cảnh: Cá nàng hai (còm), nâu, long tong, sặc…)
Hiện, trên địa bàn thành phố có khoảng 100 – 120 cửa hàng và địa điểm buôn bán lẻ cá cảnh. Trong đó phải kể đến là chợ cá cảnh Lưu Xuân Tín ở quận 5 và Nguyễn Thông ở quận 3, Cộng Hòa ở Tân Bình. Ngoài ra, rải rác ở các quận, huyện khác trong thành phố như quận Thủ Đức, quận 9, huyện Bình Chánh.
Theo ông, tiềm năng để phát triển ngành cá cảnh Việt Nam nói chung, TP Hồ Chí Minh nói riêng là gì?
Việt Nam là quốc gia nằm trong 3 khu vực (Nam Mỹ, Phi Châu và Đông Nam Á) có nguồn cá cảnh nổi tiếng của thế giới. Khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam thích hợp phát triển nhiều loài cá cảnh nội địa và nhiều loài cá đẹp quý hiếm (cả nước mặn và ngọt). Và, hầu như các loại cá cảnh trên thế giới đều đã có ở Việt Nam.
Riêng đối với thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành cá cảnh. Trước hết phải kể đến là khí hậu nhiệt đới nên có thể sản xuất được nhiều loài cá cảnh và sản xuất được quanh năm. Thức ăn tự nhiên – nguồn thực phẩm thiết yếu của nhiều loài cá cảnh, dồi dào trong các hệ thống sông rạch. Giá thành sản xuất thấp do giá nhân công, thức ăn và chi phí khấu hao trang thiết bị thấp (vì sản xuất được quanh năm).
Thêm vào đó, với vị trí là trung tâm kinh tế năng động, TP Hồ Chí Minh có lợi thế trong việc xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại. Ngoài ra, đây cũng là nơi tập trung đông nghệ nhân nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh và yêu nghề…
Với những tiềm năng này, liệu ngành cá cảnh Việt Nam có thể phát triển như các quốc gia khác, chẳng hạn như Singapore, Malaysia… không, thưa ông?
Ngành cá cảnh Việt Nam có thể phát triển mạnh như Singapore, Malaysia nếu chúng ta thực sự quan tâm và xác định đúng hướng, vì Việt Nam hội đủ các yếu tố về điều kiện tự nhiên, vùng phân bố của các loài cá cảnh.
Đồng thời cũng cần phải có sự đầu tư thích đáng về chính sách, hoạch định, phải có chiến lược phát triển cho nghề cá cảnh. Trong đó cần chú ý đến các yếu tố về giống, bảo tồn gen, lai tạo và chủ động hội nhập thị trường.
Vậy còn những khó khăn, thách thức thì sao?
Bên cạnh những thuận lợi, ngành cá cảnh Việt Nam vẫn còn gặp phải một số khó khăn như: Chưa nắm bắt và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của các thị trường châu Âu và Mỹ. Sản xuất không ổn định do phát triển tự phát. Thiếu thông tin về khoa học kỹ thuật, nhất là thông tin về thị trường đối với các nhà sản xuất mới. Sản xuất quy mô nhỏ, riêng lẻ, nhất là sản xuất thiếu kế hoạch sẽ không đáp ứng được nhu cầu thị trường cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Vấn đề ô nhiễm nguồn nước, đô thị hóa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển. Việc xuất khẩu qua trung gian gây nhiều thiệt hại, rủi ro cho nhà sản xuất, kinh doanh. Các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ luôn có các hàng rào kỹ thuật nhằm hạn chế việc xuất khẩu của các nước khác.
Để đưa ngành cá cảnh Việt Nam phát triển tương xứng với tiềm năng, theo ông cần phải làm gì?
Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước nên có trách nhiệm quản lý, kiểm soát, định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh nhập các giống mới phục vụ nghiên cứu sản xuất con giống…
Thứ hai, phổ biến, xúc tiến thương mại thị trường trong nước và xuất khẩu. Công tác nghiên cứu thị trường, đặc biệt là thị hiếu người tiêu dùng cần được quan tâm. Thường xuyên tổ chức tham gia các hội thi về cá cảnh trong và ngoài nước nhằm quảng bá sản phẩm, tạo đầu ra cho người nuôi cá cảnh, giới thiệu sản phẩm cá cảnh cho các thị trường xuất khẩu.
Thứ ba, tăng cường nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, chuyên thực hiện việc nghiên cứu, lai tạo giống cá cảnh mới.
Thứ tư, có chính sách cho phép các trung tâm nghiên cứu, khu nông nghiệp công nghệ cao chủ động nhập các giống mới về lai tạo và xuất khẩu các giống cá cảnh ngoại lai nhưng không được tiêu thụ thị trường trong nước do ngại ảnh hưởng cân bằng sinh thái.
Thứ năm, xây dựng kho tư liệu về dịch tễ nhằm kiểm soát và khống chế dịch bệnh từng vùng, từng loài khi xảy ra dịch bệnh; Phát triển các kỹ thuật chuẩn đoán, điều trị và kiểm soát dịch bệnh trên cá cảnh, đảm bảo các vấn đề an ninh sinh học trong việc nuôi cá cảnh.
Thứ sáu, Nhà nước phải có chính sách thỏa đáng để khuyến khích phát triển, có chiến lược phát triển và tích cực tạo nên các yếu tố pháp lý kỹ thuật để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá cảnh có điều kiện tiếp cận thị trường mới.
Ngoài ra cũng nên miễn thuế nhập giống cá cảnh. Và cuối cùng cũng cần rà soát các văn bản quản lý động vật ngoại lại cho phù hợp với việc kinh doanh cá cảnh.
Kg – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Hiện giá cá điêu hồng được thương lái tới tận bè thu mua với giá 41.000 – 42.000 đ/kg tùy theo loại cá và hình thức bắt cá. Với giá cá thời điểm này, người nuôi cá điêu hồng lồng bè vẫn còn lãi khoảng 11.000 – 12.000 đ/kg.
Ông Lê Minh Sang, nông dân nuôi cá bè ở xã Thới Sơn, TP Mỹ Tho (Tiền Giang) cho biết, mấy ngày nay các thương lái tới tận bè của nông dân thu mua cá điều hồng với giá 41.000 đ/kg nếu bắt cá bằng ghe đục. Đối với những thương lái bắt cá điêu hồng oxy (cá giữ trong bao ni lông chứa nước có bơm oxy), cá điêu hồng được thu mua với giá 41.500 – 42.000 đ/kg. Tính ra giá cá điêu hồng các loại đã giảm khoảng 2.000 đ/kg so với tuần trước.
Mấy ngày qua, nguồn cung cá điêu hồng tại bè tăng trở lại nên giá cá giảm nhẹ
Theo nhiều nông dân nuôi cá điêu hồng ở xã Thới Sơn, hiện giá thành sản xuất cá điêu hồng trên bè gồm con giống, thức ăn, thuốc thú y, nhân công… trong vòng 6 tháng nuôi cá bình quân khoảng 30.000 đ/kg. Năng suất bình quân mỗi bè nuôi cá điêu hồng thể tích 100 m3 ở địa phương này khoảng 5 tấn cá, nên sau khi trừ mọi chi phí sản xuất nông dân còn lãi từ 55 – 60 triệu đ/bè (tương đương 11.000 – 12.000 đ/kg cá). Thông thường mỗi nông dân nuôi cá bè ở Tiền Giang có từ 4 – 5 bè, thậm chí có tới cả trăm bè, vì vậy nếu chủ bè nào có cá bán trong thời gian gần đây sẽ có lãi hàng trăm triệu đồng.
Ông Nguyễn Văn Thành, một thương lái chuyên thu mua cá điêu hồng cung cấp cho thị trường Tp Hồ Chí Minh cho biết, nguyên nhân khiến giá cá điêu hồng giảm nhẹ trong mấy ngày qua là do nguồn cung cá điêu hồng nuôi bè ở Tiền Giang cũng như ở các tỉnh lân cận có dấu hiệu tăng trở lại. Nhiều chủ bè có cá tới lứa thu hoạch đồng loạt nên giá cá giảm chút đỉnh. Tuy nhiên, giá cá điêu hồng trong thời gian tới sẽ vẫn nằm ở mức cao trên dưới 40.000 đ/kg, do thị trường tiêu thụ cá điêu hồng hiện rất tốt và dịp Quốc Khánh 2/9 cũng đang đến gần.
Mặc dù, giá cá điêu hồng có xu hướng giảm nhưng nhiều nông dân nuôi cá điêu hồng trên bè có kinh nhiệm cũng nhận định giá khó có thể giảm xuống thấp hơn 40.000 đ/kg.
Ông Phan Thế Nhân, nông dân có 5 bè nuôi cá điêu hồng ở xã Thới Sơn, TP Mỹ Tho (Tiền Giang) cho biết, thời gian gần đây giá cá điêu hồng nằm ở mức cao, thậm chí giá cá lúc đỉnh điểm lên tới 44.000 đ/kg, nhưng người nuôi bè chưa dám khôi phục hoàn toàn sản xuất nên sản lượng cá cung cấp cho thị trường không dồi dào như những năm trước.
“Nếu trước đây bình quân mỗi chủ bè có 5 – 6 bè thả nuôi cá thì hiện nay họ chỉ dám thả nuôi 3 – 4 bè, mặc dù giá cá đang ở mức cao. Nguyên nhân là do đợt giá cá điêu hồng thấp dưới giá thành sản xuất năm ngoái (thua lỗ) trong thời gian dài đã làm cho người nuôi cụt vốn, trong khi đó hiện các đại lý kinh doanh thức ăn cá không còn bán thức ăn theo kiểu gối đầu như trước đây. Hiện nay, bình quân nuôi một bè nuôi cá điêu hồng thể tích 100 m3 giai đoạn từ 3 – 6 tháng cần phải có 5 – 7 bao thức ăn cá với giá trị gần 2 triệu đồng/ngày, do đó người nuôi cá không đủ vốn để thả nuôi hết các bè hiện có. Mặt khác, giá cá điêu hồng thời gian gần đây quá bấp bênh, nhiều lúc phải chịu lỗ nặng trong thời gian dài nên người nuôi cá cũng không yên tâm đầu tư vụ nuôi mới”, ông Nhân tâm tư.
Theo số liệu thống kê của ngành chức năng, tuần qua có 26 bè thu hoạch với sản lượng 150 tấn. Từ đầu năm đến nay đã có 856 bè với 16,748 triệu cá giống thả nuôi mới (chủ yếu thả trong quý II/2013), sản lượng thu hoạch 4.297 tấn. Hiện nay, toàn tỉnh có 1.004 bè đang thả nuôi trong tổng số 1.279 bè đang neo đậu (chiếm 78%).
Cá Tra Dầu – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Đặc điểm
Cá tra dầu có thể coi là loài cá nước ngọt lớn nhất thế giới, thuộc họ cá tra, bộ cá da trơn. Kích thước của chúng lớn, chiều dài có thể lên đến 3 m và trọng lượng có thể đến 300 kg. Cá có đầu to và dẹp, miệng rộng với hai râu dài ở hàm trên, vây bụng dài đến vây đuôi, vây lưng nhỏ ở phía trước. Lưng cá có màu nâu thẫm, màu ở bụng và vây nhạt hơn. Mặc dù lớn nhưng cá tra dầu chỉ ăn thực vật thủy sinh. Cá có đôi mắt nằm thấp trên đầu và hướng xuống dưới, có màu trắng sang vàng ở phía dưới. Chúng được phân biệt với các loại cá da trơn khác bởi râu kém phát triển hơn và không có răng.
Cá tra dầu có tập tính di cư sinh sản, chúng thường di chuyển từ tháng 10 đến tháng 12, từ hồ Tonle Sap ở Campuchia vào sông Cửu Long, từ đó nó tiến ngược dòng vào phía Đông Bắc Campuchia, Lào và Thái Lan để đẻ trứng. Chúng sử dụng các thực vật phát triển trong nước làm thức ăn. Đây là loài đặc hữu đối với lưu vực sông Mê kông chảy qua Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc. Cá tra dầu chủ yếu được tìm thấy ở hồ Tonle Sap và sông Mê Kông.
Hiện trạng
Cá tra dầu đã từng phân bố rộng rãi dọc lưu vực, từ Myanmar cho tới tây nam Trung Quốc. Cho đến đầu những năm 1990, quần thể loài này vẫn còn tương đối dồi dào. Từ đó tới nay, số lượng loài này đã bị giảm mạnh, và chỉ được tìm thấy tại sông Mê Kông và các nhánh của nó tại Lào, Campuchia và Thái Lan. Tính riêng trong thế kỷ qua, sản lượng cá tra dầu trên sông Mê Kông giảm đến 95%, và đứng trước bờ vực tuyệt chủng. Chúng được phân loại là rất nguy cấp trong Danh sách đỏ IUCN 2004, được liệt kê trong Phụ lục I của Công ước về Bảo tồn di cư loài động vật hoang dã và Phụ lục I của Công ước CITES. Theo nghiên cứu Dự án bảo tồn cá Mê Kông hợp tác với Bộ Thủy sản Campuchia tiến hành nghiên cứu vào năm 2001, đã cung cấp bằng chứng việc nạo vét, xây dựng đập đã phá hủy các bãi đẻ của cá tra dầu, đồng thời cản trở sự di chuyển và không gian sống của chúng.
Tuy nhiên, nguyên nhân chính dẫn đến quần thể cá tra dầu sông Mê Kông đã bị suy giảm mạnh do việc đánh bắt quá mức. Hiện, để bảo vệ loài cá tra dầu, ở một số nước như Thái Lan, Lào và Campuchia đã ban hành luật cấm khai thác loài cá này. Nhưng, tại nhiều ngôi làng hẻo lánh, dọc theo sông Mê Kông, người dân vẫn không thực thi điều luật này.
Giới khoa học chỉ biết đến loài cá này từ năm 1930 khi nó được “khám phá” tại một chợ cá ở Phnôm Pênh (Campuchia) và cho đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về loài cá này. Vào năm 2005, một cơ quan thủy sản Thái Lan đã bắt và nuôi giữ được một con cá tra dầu, có chiều dài 3 m và nặng 200 kg để nuôi giữ, và tiến hành sinh sản nhân tạo. Nhưng, cá đã chết trong khi nuôi nhốt và được bán làm thực phẩm cho người dân địa phương.
Cá tra dầu không thể nuôi nhốt mà chỉ đánh bắt được ngoài môi trường tự nhiên. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong cá tra dầu có lượng Omega 3 dồi dào nên rất bổ dưỡng cho não.
Bạn đang xem bài viết Ngành Cá Cảnh Việt Nam: Nhiều Lợi Thế Để Tiến Xa – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!