Cập nhật thông tin chi tiết về Kỹ Thuật Ương Cá Trắm Cỏ Giống mới nhất trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Sau thời gian ương hết giai đoạn 1; cá đã đạt tiêu chuẩn cá hương, ta tiến hành các công đoạn san cá ra các ao để ương nuôi tiếp giai đoạn từ cá hương lên cá giống; giai đoạn cá giống được phân thành nhiều giai đoạn lớn nhỏ khác nhau căn cứ vào kích thước chiều dài cá thể (tính bằng cm) để phân chia các giai đoạn như: giống cấp 1, giống cấp 2 và giống cấp 3; mỗi giai đoạn như thế có những biện pháp kỹ thuật nuôi cụ thể. Trong ương san cá giống giai đoạn ương từ cá hương lên cá giống gọi là giai đoạn 2. Các bước kỹ thuật tiến hành để thực hiện giai đoạn này như sau:
Chọn ao ương tốt nhất là hình chữ nhật, ao ương cá từ cá hương lên cá giống có diện tích từ 300-500m 2; nhưng diện tích ao ương cá giống thích hợp nhất từ 1.000-2.000m 2, mức nước trong ao từ 1,2-1,5m. Chất đáy ao là đất cát hoặc pha cát; độ dày bùn đáy từ 10-15cm, nhưng không có bùn đáy ao càng tốt vì ao nuôi cá trắm cỏ giống không yêu cầu phải gây màu nước như ương cá mè trắng. Ao ương gần nguồn nước, nguồn nước cấp cho ao ương phải đảm bảo là nguồn nước sạch, đảm bảo đạt các yếu tố về môi trường;
Trước khi san cá hương sang ao để nuôi lên giống khoảng từ 5-7 ngày tiến hành các bước như tháo cạn nước ao, tát gạn, bắt hết cá tạp, vét bớt lớp bùn đáy, đảm bảo lớp bùn đáy ao; nếu để lớp bùn đáy quá dày dẫn đến hiện tượng các chất dinh dưỡng trong ao ương dễ bị lớp bùn đáy hấp thụ do vậy những ao có lớp bùn đáy quá dày thường gây màu nước là thức ăn tự nhiên của cá rất khó; sau đó san đáy ao cho phẳng có độ dốc đáy ao thoải dần về phía cống thoát; dùng vôi (CaO; Ca(OH2…) tẩy ao với lượng 10-15 kg/100m 2 để tẩy độc cho ao và khử chua; mức độ sử dụng vôi cho từng ao phụ thuộc vào độ pH của ao, sau đó phơi đáy ao khoảng 3-5 ngày. Cấp nước vào ao ương trước khi thả cá hương, tuy nhiên đối với ao ương cá hương cấp nước vào ao trước 5-10 ngày vẫn có thể thả cá được, không phải tát gạn làm lại ao như giai đoạn ao ương từ bột lên hương; nhưng rất khoát phải quản lý tốt môi trường ao nuôi không để ếch, nhái sinh sản trong ao ương. Nước cấp vào ao phải qua lọc để tránh sinh vật có hại và các loại cá khác vào ao sẽ cạnh tranh thức. Ao ương cá giống trắm cỏ không phải bón các loại phân để gây màu nước; vì vậy có thể cấp đủ mức nước ao ngay từ đầu sau đó thả cá vào ao ương.
Sau khi ao ương có độ sâu mực nước đạt 0,8-1,0m thì thả cá hương, trong suốt quá trình ương nuôi duy trì mức nước 1,2-1,5m. Thời gian thả cá hương tốt nhất vào lúc trời mát trong ngày, buổi sáng từ 7-9 h và buổi chiều tối từ 18-20 h. Khi thả cá nên chọn vị trí như nơi đầu hướng gió, nơi cấp nước hoặc điểm nước sâu và đáy ao ít bùn nhất. Trước khi thả cá chú ý cân bằng nhiệt độ trong và ngoài bao chứa cá để tránh hiện tượng cá bị sốc nhiệt dẫn đến cá yếu và chết bằng cách ngâm bao cá trong ao ương 10-15 phút sau đó mở bao túi cho nước từ từ váo túi, mở miệng túi dần dần, quan sát hoạt động của cá trong bao chứa trước khi thả cá ra ao ương.
Cá hương phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn về kích thước cá thể cũng như khối lượng; cỡ cá phải đồng đều, thân hình cân đối, không bị dị hình, dị dạng; cá có màu xanh sẫm, vây, vẩy hoàn chỉnh không bị sây sát và mất nhớt; cá bơi lội, hoạt động nhanh nhẹn, có phản xạ tốt với tiếng động; có thể cho một số cá ra thau quan sát thấy cá bơi thành đàn, vòng tròn quanh thau là đạt. Trước khi đưa cá về ao ương sử dụng muối ăn hoặc thuốc tím để tắm cho cá với liều lượng: nước muối 2-3%, thời gian 3-5 phút hoặc sử dụng thuốc tím (KMnO4) với liều lượng 1g thuốc hòa trong 50-100 lít nước, thời gian tắm 10-12 phút để cá chóng lành các vết thương, loại bỏ các loại ký sinh trùng bám trên cơ thể cá. Sau khi tắm xong cho cá, cho cá về ao ương nuôi phải thao tác nhẹ nhàng, nhanh chóng.
Sau 2-3 ngày nuôi chú ý đến mức độ sử dụng thức ăn của cá nhất là thức ăn xanh (bèo tấm) để cung cấp thức ăn hằng ngày cho phù hợp.
Đặc điểm dinh dưỡng của giai đoạn này là cá sử dụng thức ăn xanh (chủ yếu là bèo tấm); sau đó là các loại rong (thực vật thủy sinh thượng đẳng) hoặc các loại lá xanh trên cạn, các loại cỏ. Các loại thức ăn xanh này (ngoài bèo tấm) phải được thái nhỏ vừa cỡ mồi cá mới sử dụng được. Ở giai đoạn này cá trắm cỏ có hiện tượng sinh trưởng không đều, đặc biệt là trong môi trường ao nuôi thiếu thức ăn. Vì vậy khi cá đã sử dụng tốt thức ăn xanh thì cho cá ăn thỏa mãn trong ngày; theo dõi thức ăn xanh trong ao nuôi từ khi cho thức ăn xanh cho đến sáng hôm sau lượng thức ăn xanh trong ao hết hoặc còn một ít là đạt; tốt nhất cho thức ăn xanh vào khung chứa thức ăn.
Chủ động thức ăn xanh bằng cách ương nuôi bèo tấm: Chủ động thức ăn xanh cho cá rất quan trọng; ngoài việc tìm kiếm nguồn thức ăn xanh có sẵn ngoài tự nhiên người nuôi cá phải tạo nguồn thức ăn bằng cách nuôi bèo tấm như: Chọn diện tích ao vừa phải 100-200m 2, mặt ao có độ che phủ tốt của bóng cây, ao không cần nguồn nước lưu thông (ao tù); thả một lượng bèo tấm làm giống khoảng 1/3-1/4 diện tích ao; bổ sung thức ăn cho bèo bằng đạm vô cơ hoặc Kali (thay bằng tro bếp). Khi bèo sinh sản phủ kín mặt ao thì thu hoạch dần cho cá ăn;
Bảng sử dụng thức ăn cho cá trắm cỏ: Tính cho 10.000 con
Hàng ngày phải kiểm tra tình hình sử dụng thức ăn xanh và thức ăn tinh của cá để điều chỉnh cho hợp lý. Khi cá sử dụng hết thức ăn thì ngày hôm sau phải tăng thêm. Cá sử dụng thức ăn này nhiều hơn thức ăn khác, ngày hôm sau phải thêm bớt cho phù hợp. Nếu các loại thức ăn đều không sử dụng hết thì số lượng quá nhiều hoặc cá có hiện tượng không bình thường phải kịp thời tìm hiểu nguyên nhân để giải quyết. Giai đoạn này sinh vật phù du vẫn có vai trò trong khẩu phần ăn của cá nhưng đóng vai trò thứ yếu.
Quản lý ao ương: Yếu tố môi trường và địch hại là hai yếu tố quyết định đến tỷ lệ sống và tốc độ sinh trưởng, phát triển của cá do đó người nuôi cá phải thường xuyên thăm ao nhất là buổi sáng sớm; nếu thấy cá nổi đầu buổi sáng từ 5-7 giờ khi mặt trời chưa mọc đó là hiện tượng tốt, nhưng khi cá nổi đầu quá lâu đến 9-10 giờ sáng không lặn điều đó chứng tỏ rằng trong môi trường nước ao không đủ hàm lượng ôxy cho cá hô hấp hoặc chất lượng nước không tốt phải kịp thời xử lý. Vì vậy phải định kỳ bổ sung cấp nước mới vào ao ương, khi cấp nước vào ao phải qua lọc để tránh địch hại và các loại cá khác vào ao và thực hiện các biện pháp phòng trừ dịch bệnh tổng hợp.
Ghi chép đầy đủ các chỉ tiêu, theo dõi trong nhật ký quá trình ương nuôi cá như: Môi trường ao nuôi; tình trạng sức khỏe, hoạt động của cá; thức ăn; thuốc, chế phẩm sinh học sử dụng; thời gian bổ sung hoặc cấp nước mới vào ao ương; từ 5-10 ngày kiểm tra tốc độ sinh trưởng của cá một lần để biết được chất lượng, số lượng thức ăn, tình trạng sức khỏe của cá và điều kiện môi trường ao ương để điều chỉnh cho phù hợp;
Phân tích số liệu kỹ thuật dựa trên nhật ký nuôi cá để có các giải pháp xử lý kịp thời trong quá trình ương nuôi cũng như đúc rút kết kinh nghiệm cho vụ ương nuôi kế tiếp;
Tổng hợp kết quả tỷ lệ sống ao ương sau một đợt ương nuôi để đánh giá các định mức kỹ thuật, chi phí giá thành và hiệu quả kinh tế.
Sau thời gian ương nuôi 25-30 ngày, cá đạt kích cỡ 4-6cm thì thu hoạch; có thể bán hoặc san sang ao khác để đảm bảo đủ mật độ nuôi đến khi cá đạt kích thước 12-15cm/con.Trước khi thu hoạch, phải quấy dẻo, luyện ép cho cá trước 2-3 ngày; trước khi luyện ép không cho cá ăn thức xanh và cả thức ăn tinh; khi luyện ép cá dùng lưới mềm kéo dồn cá từ từ 2/3 ao; 1/2 ao và 1/3 ao; thời gian một lần luyện ép cá ngày đầu, lần đầu 30 phút và tăng dần thời gian luyện ép cá của những ngày sau. Khi thu hoạch cá giống dùng lưới sợi mềm để kéo cá; các thao tác làm phải nhanh nhưng nhẹ nhàng, khéo léo tránh làm xây xước cá.
Kỹ Thuật Ương Cá Bột Thành Cá Giống:kỹ Thuật Ương Cá Bột Thành Cá Giống
Để việc ương cá giống đạt kết quả cao, người nuôi cần lưu ý thực hiện tốt những điều sau:
Chuẩn bị ao ương
Tốt nhất từ 500-1.000m. Ao sâu từ 1-1,5m, đáy phẳng hơi nghiêng về phía cống. Ao phải chủ động cấp thoát nước khi cần, mặt ao thoáng, bờ ao chắc chắn không có cây rậm.
Trước khi thả cá ương phải sên vét bùn đáy ao, không nên để lớp bùn đáy quá dày. Rào lưới xung quanh ao để ngăn ngừa dịch hại của cá có thể đi vào ao ương. Bón vôi khắp ao, liều lượng từ 10-15 kg/100m để diệt một số vi khuẩn gây bệnh cho cá và cải tạo nền đáy. Nếu có điều kiện nên đào rãnh xung quanh ao và bón vôi trên bờ ao để tránh chất bẩn hay phèn bị rửa trôi xuống ao khi trời mưa. Phơi đáy ao từ 3-5 ngày (vùng phèn không nên phơi đáy ao).
Đối với các ao không có điều kiện tháo cạn nước hoặc muốn diệt hết cá tạp, cá dữ còn trong lớp bùn đáy, dùng rễ dây thuốc cá ngâm một đêm và đập kỹ vắt lấy nước pha loãng tạt đều khắp ao (1kg rễ cho 100m nước). Nên thuốc cá vào buổi trưa, vì lúc này nước được nung nóng, cá dễ bị nhiễm độc hơn. Có thể dùng chế phẩm dạng bột có chứa Rotenon được đóng gói sẵn để diệt cá tạp. Lượng dùng theo chỉ dẫn trên bao bì.
Khâu lấy nước vào ao ương phải được lọc thật kỹ qua lưới mịn, có thể để thêm trấu vào túi lưới để không cho cá tạp, cá dữ và các sinh vật khác vào ao ương ăn hại cá và cạnh tranh thức ăn của cá. Kiểm tra pH nước khoảng 6,5-8,5 là có thể thả cá nuôi.
Cho cá sặt rằn giống ăn.
Cách thả cá bột
Cá bột cần được thả vào ao ương trong vòng 24 giờ sau khi lấy nước vào, để cho những địch hại của cá bột (giáp xác chân chèo, nòng nọc, bọ gạo, bắp cày, …) chưa kịp phát triển. Sau đó thức ăn dư thừa của cá bột (bột đậu, cám…) sẽ cung cấp thêm dinh dưỡng giúp tảo phát triển gây màu cho ao. Trường hợp sau khi lấy nước vào hơn 2 ngày vẫn chưa thả cá bột thì nên tháo cạn nước, cải tạo lại từ đầu. Thả cá bột xuống ao với mật độ từ 300-500 con/m. Thả cá lúc sáng sớm hoặc chiều mát.
Trước khi thả, nên ngâm túi cá trong nước từ 10-15 phút để tránh cá bị sốc nhiệt, sau đó từ từ thả cá ra ngoài ao. Nếu cá bột chứa trong bao nylon: Thả bao cá xuống ao từ 10-15 phút cho cân bằng nhiệt độ bên trong và bên ngoài bao, sau đó mở miệng bao, người thả cá đi lui về phía sau cho cá ra từ từ đến khi hết cá trong bao.
Nếu cá bột chứa trong dụng cụ hở (thau, thùng) thì thêm từ từ nước ngoài ao vào dụng cụ chứa cá làm vài lần cho cá quen với nước ao mới, sau 10-15 phút chuyển thùng xuống ao, từ từ nghiêng thùng và đi lùi về phía sau cho cá ra ngoài đến khi hết cá trong thùng.
Thức ăn
Trong 10 ngày đầu cho cá ăn lòng đỏ trứng và bột đậu nành. Khẩu phần cho 100.000 cá bột/ngày: 5 lòng đỏ trứng + 600g bột đậu nành. Cách cho ăn: Lòng đỏ trứng luộc chín bóp nhuyễn hòa tan trong nước cùng bột đậu nành. Tạt đều thức ăn khắp ao. Mỗi ngày cho ăn 3 lần: 7 giờ sáng, 11 giờ trưa, 5 giờ chiều.
Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20 cho cá ăn bột cá, cám và bột đậu nành. Khẩu phần cho 100.000 cá/ngày: 300g đậu nành + 300g cám + 300g bột cá. Cách cho ăn: Trộn đều 3 loại thức ăn trên, sau đó rải đều trên mặt ao. Ngày cho ăn 3 lần.
Từ ngày thứ 21 trở đi giảm bột đậu nành, chỉ cho ăn bột cá và cám, trộn cám và bột cá với tỷ lệ bằng nhau, cho cá ăn mỗi ngày từ 2-3 lần, lượng thức ăn chiếm khoảng 15-20 % trọng lượng cá nuôi. Cho ăn như thế đến khi cá đạt kích cỡ giống khoảng 300-500 con/kg.
Chú ý: Thức ăn nên trộn thêm Vitamin C liều lượng từ 30-40 mg/kg thức ăn. Sau khoảng 15-20 ngày, có thể cho cá ăn bằng thức ăn viên công nghiệp loại viên nhỏ mảnh có hàm lượng đạm trên 30%.
Chăm sóc, quản lý ao ương
Trong quá trình ương hạn chế thay nước, tuy nhiên khi thấy nước ao dơ hoặc có điều kiện nên thay 30% nước để kích thích hoạt động bắt mồi của cá. Hàng ngày trước khi cho ăn phải vệ sinh sàng ăn và kiểm tra lượng thức ăn còn lại để tăng, giảm hợp lý, tránh tình trạng dư thừa làm thối nước hoặc thiếu thức ăn cá sẽ sát hại lẫn nhau.
Thu hoạch
Sau khi ương từ 45-60 ngày, cá đạt kích cỡ khoảng 300-700con/kg (tùy loại cá) thì tiến hành thu hoạch. Trước khi thu hoạch 1 tuần, hàng ngày phải luyện cá bằng cách giảm bớt lượng thức ăn (chỉ còn 1/2-1/3 so với bình thường) hay cho cá nhịn đói và làm đục nước ao bằng cách dùng lưới có kích thước mắt lưới nhỏ kéo cá, để tránh cá bị xây xát và kéo lưới dồn cá lại một góc ao trong 10-15 phút vào lúc 9-10 giờ sáng, làm liên tục 2-4 ngày và nhốt trong vèo trước khi xuất bán cho người nuôi cá thịt.
Trong quá trình thu hoạch các thao tác phải thật nhanh và nhẹ nhàng, tránh làm cá mệt, nhằm hạn chế tỷ lệ hao hụt khi vận chuyển.
KS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG
Kỹ Thuật Nuôi Thâm Canh Cá Trắm Cỏ Trong Ao
Trung tâm Khuyến nông tỉnh Vĩnh Phúc sẽ hướng dẫn bà con một số kỹ thuật nuôi thâm canh cá trắm cỏ trong ao như sau:
Kỹ thuật nuôi thâm canh cá trắm cỏ trong ao
1. Chuẩn bị ao nuôi
a. Xác định vị trí ao nuôi thâm canh
– Gần nguồn cấp nước và thoát nước dễ dàng.
– Hạn chế cây xanh che bóng mát.
– Dễ quản lý, phòng chống địch hại và trộm cắp.
– Gần đường giao thông giúp cho việc vận chuyển vật tư,… thức ăn và tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng.
b. Hoạt động chuẩn bị ao nuôi
Đây là bước rất quan trọng trong quá trình nuôi. Các bước chuẩn bị gồm:
– Dọn dẹp tất cả các cây cỏ thủy sinh ở bên trong cũng như xung quanh ao nuôi.
– Tát cạn nước ao nuôi.
– Diệt hết địch hại (Rắn, cá dử…)
– Bón vôi: tỷ lệ 7-10 kg/100 m 2 hoặc 10-15 kg/100 m 2.
– Phơi khô ao 5-7 ngày.
– Lấy nước: Nước lấy vào ao phải được lọc qua lưới chắn. Lượng nước lấy vào khoảng 50 – 60cm. Giữ mức nước này khoảng 3- 5 ngày rồi sau đó tiếp tục lấy thêm nước vào cho đúng độ sâu theo yêu cầu kỹ thuật.
2. Thả giống
a. Yêu cầu con giống
– Nguồn gốc: Giống cá thả nuôi phải có nguồn gốc rõ ràng và được cung cấp bởi những cơ sở có uy tín.
– Chất lượng: Cá giống phải khoẻ mạnh, không dị hình, bơi lội hoạt bát, màu sắc cơ thể sáng tươi, không bị sây xát.
– Kích cỡ: 8 – 10cm/con; Cá giống thả nuôi phải đồng đều, cỡ giống thả càng lớn càng nâng cao được năng suất cá nuôi.
b. Mật độ loài cá thả nuôi
Mật độ cá thả nuôi trong hệ thống nuôi thâm canh trong ao đất 1-2,5 con/m 2. Điểm cần lưu ý trong quá trình nuôi, khi mật độ cá thả nuôi cao, hàm lượng DO (ppm) giảm thấp.
c. Thả giống
+ Thời điểm thả giống tốt nhất là khoảng từ tháng 3 – 4, khi thời tiết nắng ấm. Nên thả vào sáng sớm hoặc chiều mát.
+ Cá trước khi thả được tắm qua nước muối ăn (NaCl) nồng độ 3% để phòng bệnh và giúp các vết thương mau lành.
3. Biện pháp quản lý và chăm sóc ao nuôi
a. Thức ăn cung cấp cho cá trong ao nuôi
+ Thức ăn xanh: cỏ, cỏ voi, lúa,lá ngô … chiếm 20 – 30% khẩu phần ăn hàng ngày
+ Thức ăn viên (Pellet feed) hay thức ăn công nghiệp: đảm bảo chất lượng rất tốt, chiếm 70 – 80% khẩu phần ăn hàng ngày
b. Khẩu phần ăn cá nuôi trong ao nuôi
Khẩu phần cho ăn: Vào thời điểm thả giống khẩu phần ăn của cá có thể dao động từ 8 – 10% khối lượng cá trong ao. Sau 01 tháng nuôi có thể giảm khẩu phần ăn xuống còn 5 – 7%. Khi cá được khoảng 200g đến khi thu hoạch giảm khẩu phần ăn của cá xuống 2 – 4% (tùy điều kiện cụ thể).
c. Tần suất cho ăn
– Tùy theo loài cá nuôi.
– Giai đoạn phát triển của cá nuôi
Thông thường dao động từ 2-4 lần/ngày/tổng lượng thức ăn cung cấp cho cá nuôi.
d. Quản lý ao nuôi
– Hằng ngày, kiểm tra hệ thống bờ ao, cống cấp và thoát nước để khắc phục kịp thời các sự cố như: Rò rỉ thất thoát nước, sạt lở bờ ao và cống, xử lý địch hại,…
– Thường xuyên quan sát trạng thái hoạt động của cá trong ao vào sáng sớm và chiều mát để đánh giá được khả năng bắt mồi của cá và xử lý kịp thời các hiện tượng như: cá nổi đầu, bệnh cá,…
– Duy trì mực nước trong ao nuôi luôn ổn định.
– Để nắm được tình hình sinh trưởng và bệnh cá cần kéo kiểm tra cá 1 – 2 lần/tháng, mỗi lần kiểm tra tối thiểu 30 con.
– Khi có hiện tượng bất thường xảy ra như: Cá nổi đầu, bỏ ăn,.. ngừng cho cá ăn và kiểm tra nguyên nhân để xử lý kịp thời.
e. Quản lý chất lượng nước ao nuôi
– Độ pH: pH = 6,5 – 8 thích hợp cho sự phát triển của cá. Nếu pH càng thấp hoặc càng cao thì đều ảnh hưởng xấu đến cá.
– Nhiệt độ nước: Nhiệt độ thích hợp: 25 – 32 o C. Ngoài phạm vi trên nhiệt độ sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống của cá. nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đều có thể làm cho cá bị chết.
Do đó ở các ao hồ nuôi cá, để hạn chế ảnh hưởng xấu của nhiệt độ nước đến cá người ta thường sử dụng ao đảm bảo độ sâu mực nước đạt từ 1,2 – 2m để nuôi cá.
Hàm lượng oxy ở trong ao nuôi do 2 nguồn cung cấp:
+ Thứ nhất: do hoạt động quang hợp của thực vật thủy sinh tạo ra. Đây là nguồn cung cấp oxy chính cho ao nuôi .
+ Thứ hai: do sóng, gió và tác động cơ học khác làm cho oxy trong không khí hòa tan vào nước trong ao
– Hàm lượng khí cacbonic (CO 2)
Khí CO 2 có hại cho sự hô hấp của cá. Hàm lượng CO 2 trong nước cao sẽ làm cho cá ngạt thở.
Nguồn CO 2 được tạo ra trong nước ao nuôi là do sự hoà tan CO 2 từ trong không khí vào nước, do quá trình hô hấp của sinh vật ở trong nước tạo ra. Ngoài ra CO 2 còn do quá trình phân giải chất hữu cơ trong nước tạo ra.
– Hàm lượng khí Sunfuahydro (H 2 S)
Khí H 2 S là một khí rất độc cho cá.
Khí H 2 S được tạo ra bởi quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh lắng đọng dưới đáy ao hồ.
Do vậy để hạn chế ảnh hưởng của khí H 2 S đối với cá, những ao nuôi lâu ngày có lớp bùn đen dày thì cần phải nạo vét hoặc phơi đáy, cải tạo kỹ càng. Đồng thời trong quá trình nuôi cần phải quản lý kỹ lượng thức ăn cho cá ăn tránh để dư thừa thức ăn.
– Hàm lượng khí Amoniac
Amoniac là chất độc hại được tích lũy trong quá trình nuôi.Amoniac trong nước tồn tại ở một trong hai dạng là amoniac (NH 3) hoặc các ion amoni (NH 4+).
Các nguồn phát sinh ammoniac:
– Nguồn phát sinh amoniac trong ao là do vật nuôi bài tiết.
– Một nguồn khác làm phát sinh amoniac là sự khuếch tán từ các lớp bùn lắng, sự phân hủy các chất hữu cơ này sinh ra amoniac và khuếch tán vào nước…
Nếu có điều kiện định kỳ kiểm tra 1 lần/tuần, để kịp thời có biện pháp xử lý thích hợp khi điều kiện môi trường thay đổi theo hướng bất lợi cho cá nuôi.
4. Thu hoạch hệ thống nuôi
Khẳng định một lần thu toàn bộ ao nuôi khi cá đạt kích thước cá thương phẩm.
Trước khi thu hoạch 1 ngày phải ngừng cho cá ăn. Thời điểm thu hoạch nên vào sáng sớm hoặc chiều mát. Nếu thu toàn bộ cá thì trước khi thu nên tháo bớt nước còn 0,5 – 0,6m, sau đã kéo 2 – 3 mẻ thu gần hết cá rồi tháo cạn nước thu toàn bộ cá trong ao.
Phòng và trị một số bệnh thường gặp ở cá
1. Bệnh đốm đỏ ở cá trắm cỏ
– Tác nhân gây bệnh:Tác nhân gây bệnh chính là vi khuẩn thuộc họ Aeromonas sp., Pseudomonas sp.
– Dấu hiệu bệnh lý: Cá xuất hiện đốm đỏ trên thân, tuột vảy, xuất huyết ở gốc vây, ở lỗ hậu môn, và chết rải rác trong nhiều ngày, khi đạc lớp da ngoài không thấy xuất huyết, ruột có thể tích khí hoặc hoại tử. Bệnh thường xảy ra vào các tháng 3 – 4 và tháng 8 – 9, sau khi vận chuyển cá bị xây xát, hoặc khi thời tiết thay đổi, môi trường không đảm bảo hoặc do lây lan.
– Phòng bệnh:
+ Trước khi thả cá cần vệ sinh sạch sẽ ao, kết hợp với việc tẩy trùng ao nuôi bằng cách tát cạn ao, phơi đáy và bón vôi bột xuống đáy ao.
+ Trong quá trình nuôi: thường xuyên khử trùng nước ao bằng vôi hoà nước té đều, hoặc treo túi vôi đầu nguồn nước chảy. Định kỳ cho cá ăn thuốc KN-04-12 hoặc thuốc Tiên Đắc “Fish Health” của Trung Quốc như hướng dẫn ở phần trước.
+ Khi bệnh xảy ra: dùng vôi khử trùng nước và cho cá ăn 1 trong 2 loại thuốc trên trong 5 – 7 ngày liên tục.
2. Bệnh trùng mỏ neo
Tác nhân gây bệnh: Do trùng mỏ neo (Lernea) gây ra, hình dạng của nó giống neo thuyền.
Dấu hiện bệnh lý: Trùng thường bám ở gốc vây, trên thân, quanh môi, làm cho chỗ bám sưng đỏ. Mắt thường có thể nhìn thấy trùng. Cá nhiễm trùng có biểu hiện bơi lội không bình thường, cá gầy yếu.
Phòng bệnh: Giữ nước ao luôn sạch. Những nơi hay bị trùng mỏ neo có thể dùng lá xoan bón lót với liều 0,2 – 0,3 kg/m 2 để diệt ấu trùng.
Trị bệnh: Dùng lá xoan với liều 0,4 – 0,5kg m 3 nước (Bó lá xoan và dìm xuống sau 5 – 7 ngày vớt bỏ lá xoan) hoặc dùng vôi hoà nước té khắp ao.
3. Bệnh nấm thuỷ my
– Tác nhân gây bệnh: Do nấm Saprolegnia.
– Dấu hiệu bệnh lý: Phần da xuất hiện các vùng trắng xám, sau vài ngày nấm phát triển thành từng búi trắng như bông, có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
– Phân bố và lan truyền bệnh:Bệnh thường xuất hiện vào mùa đông ở các ao tù, nơi nuôi với mật độ dày, sau khi đánh bắt hoặc vận chuyển bị xây xát.
– Phòng trị bệnh:
Dùng thuốc tím, hoặc nước muối hoặc formaline để xử lý bệnh.
Chúc bà con áp dụng thành công!
Tìm Hiểu Kỹ Thuật Ương Cá Bột Và Cá Mè Hôi Giống
1. Ương cá hương trong bể xi măng và cá giống trong ao đất
Sau khi cá bột tiêu hết noãn hoàng (2.5 – 3 ngày), tiến hành lọc nước và thả ương trên bể xi măng. Bể ương có thể tích 10 – 12 m3. Độ sâu lúc đầu khoảng 0,6m, sau đó tăng dần theo thời gian ương đến 0,8-1m. Mật độ ương là 2000 con/m 3. Cần sục khí liên tục trong quá trình ương để cung cấp đầy đủ hàm lượng oxy cho cá.
Thức ăn cho cá 10 ngày đầu là moina và bột sữa hoặc bột đậu nành. Cứ 25.000 con cá bột cho ăn một ngày 300g moina (trứng nước) + 100g bột sữa (hoặc bột đậu nành). Từ ngày 11 trở đi, cứ 25.000 cá bột cho ăn 100g hỗn hợp cám và bột cá mịn/ngày.
Theo dõi thường xuyên sức khỏe của cá, chất lượng nước đảm bảo nhiệt độ nước: 29-30 o C, Oxy hòa tan: 4- 5 ppm, pH: 6,8-7,5 trong bể ương để điều chỉnh lượng thức ăn cũng như thay nước kịp thời.
Sau 21 ngày ương, cá có chiều dài 1,6 cm, trọng lượng 0,15g, lúc này có thể chuyển xuống ao đất để ương tiếp tục đến giai đoạn cá giống. Tỷ lệ sống đạt từ 60 – 83%.
Ao đất ương cá nên có diện tích từ 300-700 m 2. Sau khi cải tạo ao, thả cá hương (đã ương trên bể ximăng) với mật độ 50 – 80 con/m 2. Thức ăn được sử dụng là cám + bột cá. Lượng thức ăn là 100g/ngày, sau đó tăng lên theo thời gian ương. Cho ăn ngày 2 lần, buổi sáng lúc 7 – 8 giờ và buổi chiều lúc 14 – 15 giờ.
Theo dõi sức ăn của cá, định kỳ thay nước để luôn giữ màu xanh lá mạ, hoặc xanh đọt chuối non. Sau 50 ngày ương, cá giống đạt trọng lượng khoảng 2,5g và chiều dài 5,7 cm. Tỷ lệ sống khoảng từ 40 – 60 %.
2. Ương cá trực tiếp trong ao đất
Chọn ao ương nên có diện tích từ 300 – 1.000 m 2. Ao được tát cạn, bón vôi với liều lượng 7-15kg/100m 2. Sau khi phơi đáy 2 – 3 ngày thì lọc nước vào ao cho đến khi mực nước đạt 0.6 – 0.8m, rồi thả 5 – 10 lon trứng nước (moina) để gây giống trong ao. Ao ương được bao lưới xung quanh để tránh sự xâm hại của cá dữ, ếch nhái,….
Thả cá bột 3 ngày tuổi vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Mật độ thả là 200-300 con/m 2.
Trong 10 ngày đầu, cứ 100.000 cá bột mỗi ngày cho ăn 500 – 800g bột đậu nành hoặc 500g bột sữa. Thức ăn được pha loãng trong nước và tạt đều khắp ao. Chia đều thành nhiều cữ ăn trong ngày (4-6 lần/ngày). Lượng thức ăn thừa sẽ kích thích Moina giống phát triển, đây là thức ăn chính của cá trong giai đoạn này.
Từ ngày 11 trở đi: mỗi ngày cho ăn 1 kg hỗn hợp cám và bột cá mịn.
Theo dõi và tăng lượng thức ăn sử dụng từ ngày thứ 21 trở lên. Sau 60 ngày ương trong ao, cá đạt trọng lượng 2,8 g, chiều dài 6,2 cm. Tỷ lệ sống khoảng 40 – 60 %.
Bạn đang xem bài viết Kỹ Thuật Ương Cá Trắm Cỏ Giống trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!