Xem Nhiều 4/2023 #️ Kỷ Thuật Nuôi Cá Mú Đen Trong Ao Đất # Top 7 Trend | Fcbarcelonavn.com

Xem Nhiều 4/2023 # Kỷ Thuật Nuôi Cá Mú Đen Trong Ao Đất # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Kỷ Thuật Nuôi Cá Mú Đen Trong Ao Đất mới nhất trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Chia sẻ nội dung:

Kỷ thuật nuôi cá mú đen trong ao đất

Cá mú hay còn gọi là cá song có thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, là đặc sản được tiêu thụ tại các nhà hàng ở dạng cá sống và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao…

Do tập tính sống trong môi trường có nguồn nước lưu thông thường xuyên nên đa số người nuôi thường thả cá vào lồng, bè treo dưới biển. Với hình thức nuôi lồng, đối tượng này tỏ ra khá thích hợp và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi. Song, hình thức nuôi này khá tốn kém và cá thường xuyên chịu ảnh hưởng của môi trường nước bên ngoài có nhiều biến động do ảnh hưởng xả lủ, áp thấp nhiệt đới, bão, các chất thải tàu khai thác vào neo đậu. Do vậy nuôi cá mú trong ao đất là một niềm hy vọng mới cho bà con ngư dân, vì chi phí đầu tư vừa phải, hệ số thức ăn thấp, cá ít bị bệnh.

: diện tích 500 – 5000 m 2 , cải tạo sên vét bùn đáy, lấp kín hang hốc, nếu có điều kiện trãi bạt càng tốt, tránh cá đào hang quanh bờ.

: đây là loài cá dữ, có thể ăn thịt lẫn nhau khi thiếu mồi, nên thả ở mật độ thưa từ 1 – 3 con/m 2 .

Độ mặn:10 – 23 ‰

Độ trong: 30 – 45 cm

NH3: 0 – 0.008 mg/l

Độ kiềm: 60 – 100 mg/l

Tháng đầu cho ăn 10% trọng lượng thân, cho ăn 3 lần/ngày. Các tháng tiếp theo cho ăn 2 lần/ngày, khẩu phần ăn cho theo nhu cầu bằng cách dùng sàng đặt dưới ao. Hàng ngày kiểm tra sàng 2 lần ngay sau những lần cho ăn nhằm tránh tình trạng thức ăn dư làm ô nhiễm nguồn nước ao.

Khi cá ăn mạnh, định kỳ trộn vitamin C và men tiêu hoá vào thức ăn cho ăn liên tục 5 ngày, sau đó cách 5 ngày cho ăn tiếp.

Trong ao bố trí chà và các ống nhựa có đường kính 10 – 20 cm cho cá trú ẩn, hạn chế cá tấn công nhau gây xây xát nhiễm bệnh cơ hội. Định kỳ thu mẫu bằng cách vớt những ống nhựa lên để kiểm tra sức khoẻ cũng như tốc độ tăng trưởng của cá.

Việc phòng bệnh phải được đặt lên hàng đầu trong nghề nuôi thuỷ sản nói chung và nghề nuôi cá nói riêng, nhất là đối với những loài ăn thức ăn tươi như cá mú. Công việc này phải tiến hành ngay từ đầu để giảm bớt rủi ro trong quá trình nuôi. Cần làm tốt những việc sau:

Ao nuôi phải nằm gần nguồn nước có độ mặn, pH thích hợp cho đối tượng, điều kiện cấp thoát nước dễ dàng. Bên cạnh đó nguồn nước ngọt phải đầy đủ để xử lý cá bệnh khi cần.

Chọn giống khoẻ, đồng cỡ, không xây xát, hoạt động nhanh nhẹn.

Thả nuôi ở mật độ vừa phải, không thả quá dày.

Cá tạp dùng làm thức ăn cho cá phải tươi, rửa sạch bằng nước ngọt. dùng sàng ăn kiểm tra sức ăn của cá, không cho ăn dư sẽ ảnh hưởng đến môi trường ao nuôi.

Định kỳ bổ sung vitamin C, men tiêu hoá vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho cá nuôi.

Thường xuyên thu mẫu kiểm tra tình trạng sức khoẻ cá, xem vây, mang, da, mắt…để kịp thời phát hiện bệnh xử lý ngay.

Bệnh do virus (siêu vi trùng): Nguyên nhân có thể lây truyền mầm bệnh từ bố mẹ. Cá bị sốc bởi các yếu tố môi trường thay đổi đột ngột về pH, độ mặn, các vật chất hữu cơ tăng cao làm mất sức đề kháng, là điều kiện tốt cho mầm bệnh trong cơ thể phát triển.

: Cá bơi xoay tròn và yếu dần, màu sắc thân tối, mang lợt màu, mắt lồi có màu vàng. Bệnh gây chết hàng loạt khi nuôi ở mật độ quá dày, thường thấy ở cá nuôi bè, hiện nay chưa có thuốc đặc trị.

Bệnh ghẻ (lở loét) : tác nhân do vi khuẩn tấn công gây lở loét ở da, vây. Đây là các tác nhân cơ hội gây bệnh cho cá khi sức khoẻ cá bị suy yếu do thiếu sự chăm sóc hay do môi trường biến động lớn.

: Các vây bị thối rữa, xuất huyết dưới da gây lở loét.

– Tắm cá trong nước ngọt 15 – 20 phút, có sục khí.

– Tắm cá bằng dung dịch oxytetracyline 30ppm (30g thuốc cho vào 1.000 lít nước ngọt), có sục khí.

Bệnh do ký sinh trùng: Do các sinh vật tương đối lớn như protozoa, giáp xác, giun, đĩa… chúng ký sinh ở mang, da, mắt gây khó chịu cho cá và làm cá chậm lớn.

Dấu hiệu: Cá tập trung lại gần nơi có nước chảy, cá cọ mình vào vật cứng, da bị tổn thương, mang lợt màu.

– Tắm cá trong dung dịch formol 200mg/l trong 30 – 40 phút, có sục khí.

– Tắm cá trong dung dịch oxy già 150mg/l trong 30 phút, có sục khí.

– Tắm cá trong dung dịch đồng sunfat 0,5mg/l trong 30 phút, có sục khí.

Trường hợp xử lý ngay trong ao để ngâm cần tháo nước bớt, dùng 1/2 liều lượng nêu trên, xử lý trong 1 – 3 giờ, sau đó cấp thêm nước mới, ngày sau thay 30 % nước.

HÌNH ẢNH CÁ MÚ ĐEN THƯƠNG PHẨM

Thu hoạch: Tuỳ theo cỡ giống thả mà thời gian nuôi đến lúc thu hoạch khác nhau từ 6 đến 10 tháng. Khi cá đạt trọng lượng từ 0,6 – 1 kg/con dùng lưới vây thu lần thứ nhất, sau đó tháo cạn nước thu toàn bộ. Nên kéo lưới lúc trời mát để ít ảnh hưởng đến cá, chuẩn bị các dụng cụ như thau, chậu, máy sục khí để bảo đảm chất lượng cá thương phẩm.

VIDEO VỀ CÂN CÁ MÚ ĐEN THƯƠNG PHẨM

Nuôi Cá Mú Trong Ao Đất

Nuôi cá biển trong ao đất

Nghề nuôi cá bống mú trong ao đất là triển vọng mới. Chi phí đầu tư vừa phải, hệ số thức ăn thấp, cá ít bị bệnh, rất phù hợp ở vùng đất ven biển Kiên Lương (Kiên Giang). Huyện đang khuyến khích mở rộng diện tích nuôi, và tăng sản lượng mỗi năm, nhắm đến xuất khẩu cá bống mú trong tương lai.

Mô hình đưa cá bống mú lồng bè ngoài biển vào nuôi trong ao đất dưới tán rừng phòng hộ ở ấp Ba Núi, xã Bình An (Kiên Lương, Kiên Giang) mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Lãi 2 tỷ đồng/năm

Trước hết phải kể đến nông dân sáng tạo đưa mô hình độc đáo từ biển khơi vào trong đất liền, đó chính là ông Nguyễn Hữu Trí ở ấp Ba Núi. Hôm chúng tôi đến, ông Trí đang hì hục đặt máy bơm nước trong vuông ao để chuẩn bị thả nuôi cá bống mú đợt mới.

Ông Trí nói: Gia đình có 2 ha đất bị nhiễm phèn, trồng lúa cho năng suất thấp và bấp bênh, trồng cây ăn trái thì không hiệu quả. Thấy đồng đất khó khăn như vậy, bao lần tôi định bỏ hoang, tìm việc khác để mưu sinh. Năm 1998, thấy một số nơi bà con thả nuôi tôm sú đạt hiệu quả, tôi cũng bắt chước làm theo nhưng đều thất bại, trở nên trắng tay. Có lúc phải đi làm thuê làm mướn cho người ta để kiếm tiền mua gạo ăn qua ngày.

Câu chuyện nuôi cá biển trong ao của ông Trí mới bắt đầu từ năm 2007, ông được người bạn thân ở xóm rủ đi biển đánh bắt cá bống mú. Trong suốt 1 tuần ở ngoài biển lượng cá đánh bắt được khá nhiều nhưng tàu hết nước để uống. Ông và người bạn tìm cách rẽ vào hòn đảo để xin nước ngọt và đổi cá với chủ nhà. Tình cờ ông thấy phía sau nhà người cho nước uống có nuôi khoảng 10 con cá bống mú dưới ao đất mà vẫn sinh sống khỏe mạnh.

Từ ý tưởng đã hình thành trong đầu, giống như ngọn đuốc bừng sáng. Trở về nhà ông bàn với gia đình, sáng hôm sau sang nhà bà con vay mượn 20 triệu đồng để cải tạo ao và mua cá giống về thả nuôi. Ban đầu ông còn “nhát tay”, vì chưa có kinh nghiệm nhiều nên chỉ nuôi tập trung vào 2 cái ao với diện tích khoảng 5 công thả thử xem sao.

Sau khi xử lý nước xong nuôi thấy cá khỏe mạnh, ông bắt đầu đi đặt hàng các ngư dân trên địa bàn, nếu bắt được cá bống mú con thì bao nhiêu ông cũng mua. Do cá con không đồng đều nên ông chia ra nhiều ao để tiện việc chăm sóc, theo dõi tình hình sinh trưởng của chúng. Từ khi ông thực hiện mô hình táo bạo này người dân hàng xóm cười ông nói: “Cá bống mú xưa nay sinh sống ngoài biển, đưa vào ao đất như vậy cho phí tiền”.

Ông Trí cho biết: Mặc cho những lời nói ra vào, ông cứ thực hiện theo ý tưởng của ông. Tính từ ngày đầu thả nuôi đến khi thu hoạch là 10 tháng. Mặc dù loại cá này thuộc dạng dễ nuôi nhưng quá trình chăm sóc cũng rất công phu. Ngoài thức ăn cho bống mú là cá phân (cá nhỏ), cứ 15 ngày phải thay nước ao nuôi 1 lần theo quy cách: Bơm ra ngoài khoảng phân nửa nước hiện có trong ao, rồi bơm nước mới từ bên ngoài vào với thể tích tương đương như vậy.

Mô hình nuôi cá bống mú trong ao đất của ông Trí

Sau 10 tháng thả nuôi, cá đạt trọng tượng từ 1 – 1,5 kg/con. Ông Trí đã thu hoạch mấy ao cá bống mú trước sự ngỡ ngàng của bà con. Với tổng số 5 công thả nuôi, thu được 3 tấn, sau khi trừ chi phí, lãi gần 400 triệu đồng. Từ thành công ban đầu ông Trí trả hết nợ nần cho hàng xóm, số tiền còn lại ông bắt đầu cải tạo ao và mở rộng diện tích nuôi ra 2 ha nằm trong rừng phòng hộ cặp cửa biển Ba Hòn, cũng là địa điểm thích hợp cho việc lấy nước ra vào nuôi cá bống mú.

Số tiền còn lại ông mua con giống thả hết diện tích. Do rút tỉa được kinh nghiệm nuôi của vụ đầu nên ông Trí rất yên tâm nuôi vụ thứ hai trong ao đất và thu được 7 tấn cá, bán với giá 250.000 đồng/kg lãi gần 2 tỷ đồng. Và nhiều vụ thả nuôi tiếp theo ông đều thành công giúp gia đình trở nên khá giả nhất trong ấp.

Kỹ thuật nuôi cá bống mú

Cá bống mú là loài thủy sản nuôi trồng có giá trị kinh tế cao, loại cá này thuộc dạng dễ nuôi, tỷ lệ sống trên 90%, nhưng quá trình chăm sóc cũng rất công phu. Ngoài thức ăn cho cá bống mú là cá phân như cá cơm, cá trích, cá liệt…, lúc cá con mới đem về cho ăn bằng thức ăn xay nhuyễn cộng với tấm cám nấu. Khi cá lớn bằng cùm tay bắt đầu cho cá ăn loại cá phân sống, ban đầu cho ăn 1 ngày hai cữ và khi cá lớn giảm xuống cho ăn 1 cữ/ngày.

Theo ông Trí khâu quan trọng nhất là quản lý nước trong ao, cứ 15 ngày là phải thay nước ao nuôi theo quy cách bơm ra ngoài khoảng phân nửa nước hiện có trong ao, rồi bơm nước mới từ bên ngoài vào ao với thể tích tương đương như vậy mới thích nghi được cho cá.

Ao nuôi cải tạo sên vét bùn đáy, nếu có điều kiện trải bạt càng tốt để hạn chế cá đào hang quanh bờ. Về giống có thể thả cá giống được thu gom tự nhiên cỡ 5 - 7 cm hoặc 10 - 15 cm, hoặc chọn cá sinh sản nhân tạo. Con giống đòi hỏi không xây xát, dị hình; màu sắc tươi sáng, hoạt động nhanh nhẹn. Về mật độ thả, đây là loài cá dữ có thể ăn thịt lẫn nhau khi thiếu mồi, nên thả ở mật độ thưa từ 1 - 3 con/m2.

Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường nước, giữ các chỉ số ổn định trong giới hạn thích hợp bảo đảm cho cá phát triển bình thường. Độ mặn từ 10 - 23 ‰ ; pH từ 7.5 - 8.5 là thích hợp thả nuôi cá bống mú.

Ông Trí cho biết thêm, để cá sống trong ao phải bố trí chà và các ống nhựa có đường kính 10 – 20 cm cho cá trú ẩn, hạn chế cá tấn công nhau gây xây xát nhiễm bệnh. Định kỳ thu mẫu bằng cách vớt những ống nhựa lên để kiểm tra sức khoẻ cũng như tốc độ tăng trưởng của cá. Trung bình đầu tư nuôi cá mú trong ao đất đến thu hoạch khoảng 50.000 – 60.000 đồng/con/kg, còn đầu tư nuôi cá bằng lồng bè ở ngoài biển giá thành có thể tăng gấp 2 – 3 lần và quy mô bị giới hạn so với nuôi trong ao đất mà thường xuyên bị rủi ro cao.

Từ sự thành công của bản thân ông Trí nuôi loài cá này, ông còn thành lập HTX nuôi cá bống mú trong ao đất được 15 ha với 20 xã viên được ông hướng dẫn kỹ thuật nuôi rất nhiệt tình. Các xã viên trước đây là người dân nghèo có hoàn cảnh khó khăn nay nhờ vào HTX nuôi cá mú đã có của ăn của để. Bên cạnh đó HTX có nguồn cá bán quanh năm cho thương lái, nên giá luôn ổn định ở mức cao. Hiện tại trong xã Bình An có nhiều người học nuôi theo và số lượng lên khoảng 100 hộ nuôi với diện tích trên 50 ha.

Ông Vương Minh Mẫn, Trưởng phòng Kinh tế huyện Kiên Lương, cho biết: Do tập tính của cá bống mú sống trong môi trường có nguồn nước lưu thông thường xuyên nên đa số người nuôi thường thả cá vào lồng, bè treo dưới biển. Với hình thức nuôi lồng, đối tượng này tỏ ra khá thích hợp và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi.

Song, hình thức nuôi này khá tốn kém và cá thường xuyên chịu ảnh hưởng của môi trường nước bên ngoài có nhiều biến động do ảnh hưởng xả lũ, áp thấp nhiệt đới, bão, các chất thải tàu khai thác vào neo đậu làm tăng rủi ro cao.

Lê Hoàng Vũ, Nông nghiệp VN, 01/05/2013

Kỹ Thuật Nuôi Cá Điêu Hồng Trong Ao Đất

Cá Điêu Hồng là loại rô phi lai giữa loài rô phi đen với rô phi vằn, vẩy trên thân có màu vàng đậm hoặc nhạt, hay màu đỏ hồng. Cũng có thể gặp những cá thể có màu vàng, màu hồng xen lẫn những vẩy màu đen. Cá Điêu Hồng là loại cá có giá

trị dinh dưỡng cao, sống và phát triển tốt trong các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn….

Cá Điêu Hồng là loài cá ăn tạp thiên về thực vật và các chất như: mùn bã hữu cơ, tảo và động vật phù du trong nước. Trong ao nuôi cá ăn thức ăn tự chế biến và các phụ phẩm nông nghiệp, cám gạo, bột sắn, bột ngô hay rau bèo kết hợp một phần bột cá và thức ăn viên tổng hợp.

– Ao nuôi có diện tích từ 300m2 trở lên, độ sâu ao 1- 1,5 m, ao nuôi chủ động cấp tháo nước trong quá trình nuôi.

– Phát quang bụi rậm, tu sửa bờ ao, lấp hết hang hốc. Mặt ao không bị cớm rợp, đảm bảo thông thoáng nhằm tăng cường oxy hòa tan từ không khí vào nước.

– Tháo nước bắt hết cá tạp, cá dữ, vét bù đáy ao.

– Bón vôi liều lượng 7- 10kg/100m2, phơi nắng từ 5 – 7 ngày sau đó bón phân 20 – 30kg/100m2 (phân chuồng đã ủ hoai), tiến hành cấp nước vào ao. Nơi cấp nước phải có lưới lọc ngăn không cho cá tạp và cá dữ vào ao nuôi.

Nguồn giống đảm bảo chất lượng, màu sắc tươi sáng, giống kích cở đồng đều ( 5 – 7cm/con), không dị hình, bơi lội nhanh nhẹn và không có dấu hiệu bệnh. Mật độ thả: 3 con/m2.

– Vận chuyển con giống:

– Có 2 cách vận chuyển cá giống:

+ Vận chuyển kín bằng túi nilon có bơm ôxy, mật độ vận chuyển 500 con/ túi nilon (10 lít nước).

+ Vận chuyển hở: vận chuyển bằng thùng phi nhựa có sục khí trong quá trình vận chuyển, mật độ vận chuyển 800 con/10 lít nước.

+ Tiến hành tắm cho cá bằng nước muối 2- 3% (2 – 3 lạng muối hòa với 10 lít nước sạch) trước khi thả cá xuống ao nuôi, mục đích để cho cá sạch mầm bệnh.

+ Cách thả: Giống được thả vào sáng sớm, trước khi ngâm túi đựng cá trong ao 5- 10 phút, mở miệng túi cho nước từ từ vào rồi thả cá ra ao, thả vị trí đầu hướng gió.

+ Thức ăn sử dụng cho cá là thức ăn tổng hợp dạng viên nổi, khi cá nhỏ sử dụng thức ăn bột mịn, sau khi cá nuôi được 1 tháng trở lên dùng thức ăn viên, ngoài ra bổ sung: bèo cám, rau xanh, bột sắn, phụ phẩm nông nghiệp sẵn có tại địa phương cho cá ăn. Lượng thức ăn: Khi cá mới thả cho cá ăn thức ăn công nghiệp, với tỷ lệ 10% trọng lượng cơ thể. Khi cá đạt trọng lượng 50g/con giảm xuống 5% trọng lượng cơ thể, cá đạt trọng lượng cá đạt 100g/con trở lên thì cho cá ăn 2 – 3 % trọng lượng cá trong ao. Ngày cho ăn 2 lần (sáng 6-7h chiều 17-18h).

+ Định kỳ 15 ngày bổ sung phân chuồng ủ hoai hoặc phân cút để tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Liều lượng 15kg/ 100m2.

– Quản lý môi trường:

+ Thường xuyên thay nước ao nuôi với liều lượng là 10%- 20% lượng nước trong ao, sau khi thay nước nên bón vôi với liều lượng 10g/m3 ao nhằm ổn định môi trường ao nuôi để cá phát triển tốt.

+ Vào những ngày mưa lớn theo dõi pH nước để có biện pháp bón vôi thích hợp, nếu pH thấp (< 6,5 ) bón vôi liều lượng 15g/m3 nước.

+ Theo dõi hoạt động bơi lội của cá, nếu buổi sáng đến 9 giờ thấy cá còn nổi đầu thì có biện pháp thêm hoặc thay bớt nước.

Cá Diêu hồng là loài cá Rô phi đỏ, một số loại bệnh thường gặp trên cá Diêu hồng cách phòng trị.

Bệnh do trùng mặt trời và tà quản trùng, bệnh do sán lá đơn chủ, bệnh do giáp xác ký sinh (Argulus và Ergasilus).

– Dấu hiệu xuất hiện bệnh:

Triệu chứng thường thấy là xuất hiện những nốt đỏ, xuất huyết, các vùng bị viêm loét trên mình cá. Cá thường gầy yếu, đầu to, da mất dần màu sắc bình thường bơi lờ đờ, chậm chạp, phản ứng kém với người và các sinh vật địch hại.

Khi phát hiện cá bị bệnh dùng CuSO4 (phèn xanh) nồng độ 2 – 5g/10m3 sau thời gian 6 – 8 giờ thay nước mới cho ao hoặc tắm cho cá dùng 20 – 50g/10m3 trị trong 15 – 30 phút cách ngày trị một lần; muối ăn dùng để phòng và trị bệnh cho cá, nồng độ 1 – 3% trị thời gian dài và 1- 2% trị trong 10 – 15 phút.

Bệnh do vi khuẩn Aemomas hydrophia hoặc Edwardsiellatarda gây ra.

– Dấu hiệu xuất hiện bệnh: Cá có dấu hiệu toàn thân bị xuất huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to, có dịch vàng hoặc hồng, đầu và mắt cá sưng và lồi ra.

– Cách phòng trị: Nên định kỳ bón vôi khử trùng nước 1 – 2kg/ 100m3 và khử

trùng nơi cho ăn. Cách trị dùng Oxytetraxylin hoặc Steptomyxin liều lượng 2 – 5g/kg thức ăn cho cá ăn liên tục 3 – 5 ngày kết hợp bón vôi khử trùng nước ao nuôi.

Thường xảy ra ở các ao cho cá ăn thức ăn tự chế không được nấu chín, không đảm bảo chất lượng làm cá không tiêu hoá được thức ăn, bụng cá trương to, ruột chứa nhiều hơi. Cá bơi lờ đờ và chết rải rác.

– Cách phòng trị: là kiểm tra chất lượng và thành phần thức ăn để điều chỉnh lại cho thích hợp. Nếu trường hợp nặng thường xuyên có thể thay đổi thức ăn. Trong thức ăn nên bổ sung men tiêu hóa (các probiotic…).

Sau thời gian nuôi 4 – 6 tháng, cá đạt trọng lượng 400 – 600g trở lên thì tiến hành thu hoạch. Cách thu có thể thu tỉa hoặc thu một lần./.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Trê Vàng Thương Phẩm Trong Ao Đất

Do môi trường trong sản xuất nông nghiệp ngày càng ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, chất hữu cơ, cùng với việc đánh bắt cá ngoài tự nhiên bằng xung điện cũng như bằng thuốc ngày càng nhiều nên nguồn cá trê vàng cạn kiệt theo thời gian. Hiện nay, ở Đồng bằng sông Cửu Long bà con đã chú trọng đến việc nuôi thương phẩm loài thủy sản này. Theo thống kê cá trê vàng có hàm lượng dinh dưỡng như: Đạm, chất béo, chất khoáng rất cao, thịt cá mềm, ít xương…

Do nhiều hộ dân đã chuyển sang nuôi cá trê vàng trong ao đất sử dụng hoàn toàn thức ăn công nghiệp, nuôi cá trê vàng trên ruộng lúa có bổ sung một phần thức ăn công nghiệp… Vì vậy người nuôi cần nấm một số kỹ thuật cơ bản như khâu cải tạo ao, chọn con giống, quản lý và chăm sóc, cách phòng và trị một số bệnh trong quá trình nuôi.

1. Chuẩn bị ao nuôi.

Khâu cải tạo cũng như chuẩn bị ao nuôi.

Diện tích ao nuôi cá trê vàng thích hợp từ 500 – 1.000m2. Mực nước dao động từ 1,2 – 1,8m. Ao nuôi bố trí gần nguồn nước cấp, chủ động được khâu cấp, thoát nước. Đáy ao ít bùn, bờ ao vững chắc. Cải tạo ao nuôi bằng cách tát cạn ao, diệt hết cá tạp, bón vôi 10 kg/100 m2. Phơi đáy ao từ 3-4 ngày, sau đó cấp nước vào qua lưới lọc.

2. Chọn và thả giống.

Cá giống thả nuôi phải đồng đều, kích cỡ con giống từ 5 – 10cm (mẫu 100 – 120 con/kg), cá giống không bị xây xát, dị hình. Mật độ thả từ 50 – 60 con/m2. Nên thả cá vào lúc trời mát. Trước khi thả cá cần tấm cá bằng nước muối với liều lượng từ 3-5gam muối ăn/lít nước hoặc dùng Iodine để xử lý con giống sau khi thả vào môi trường ao nuôi.

Cá trê vàng giống chuẩn bị thả nuôi.

3.Thức ăn.

Trong quá trình nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp. Tùy theo các giai đoạn phát triển, lượng thức ăn hàng ngày cho cá trê vàng dao động từ 5-7% trọng lượng trong ao (khẩu phần ăn thay đổi tùy theo từng tháng nuôi). Hàm lượng chất đạm cần thiết để duy trì cá phát triển tốt ở tháng thứ nhất là từ 30-40%, tháng thứ 2 là 28 – 30%. Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần (sáng và chiều) khi cho ăn cần phải rãi điều giữa ao để cho cá ăn điều cá phát triển tốt.

Kích cở thức ăn công nghiệp tùy theo giai đoạn nuôi

4. Chăm sóc và quản lý ao nuôi.

Cần duy trì mực nước ao nuôi ổn định trong suốt vụ nuôi. Định kỳ thay nước từ 10-15 ngày/lần, mỗi lần thay 1/3 nước trong ao. Thường xuyên kiểm tra bờ, bọng, rào chắn cẩn thận để phòng sự thất thoát cá nuôi, nhất là vào mùa mưa lũ.

Theo dõi hoạt động của cá hằng ngày, điều chỉnh lượng thức ăn sao cho vừa đủ, không thừa cũng không thiếu. Định kỳ 2 lần/ tuần trộn thêm Vitamine C (từ 60 – 100 mg/kg thức ăn) và chất khoáng vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cũng như giúp cá tăng trưởng tốt hơn.

5. Phòng trị bệnh cho cá trê vàng.

Bệnh nhầy da: Bệnh này do ký sinh trùng gây ra. Khi bị bệnh cá bơi thẳng đứng trên mặt nước, vây bị ăn mòn, râu quăn, da có đám chất nhầy. Điều trị bệnh nhầy da bằng sunphat đồng 0,3g/m3 nước, tắm trong 2-3 ngày liên tục hoặc dùng Fomalin 25 g/m3 tắm trong 2 ngày liên tục. Kết hợp cho ăn kháng sinh trị nội ngoại ký sinh trùng.

Bệnh trắng da khoang thân: Khi mắc bệnh cá thường nổi trên mặt nước, da bị loét, thân có những vệt trắng, vây cụt. Bệnh do vi khuẩn Flexiloacter columnanis gây ra. Điều trị bệnh bằng các loại thuốc kháng sinh như Chloroxit, Tetracilin, Penixilin tắm cho cá trong 30 phút. Kết hợp cho ăn Trimesul, Vimero…

Bệnh trùng quả dưa: Thân cá tại gốc vây ngực có nhiều chấm nhỏ như hạt tấm màu trắng. Các chấm nầy vỡ ra tạo nên các vết loét ở chỗ vỡ. Điều trị bằng các loại thuốc như dùng BKC, đồng sunphat hoặc dùng Formalin dùng trong 3 ngày liên tục.

Bệnh sán lá: Cá bị bệnh có màu đen, đầu to, đuôi nhỏ, mang bị đỏ, cá bơi chậm chạp dựng đứng quanh thành ao. Bệnh do vi khuẩn Dactylogyrus gây nên. Điều trị tạc trực tiếp thuốc Dipterex 0,25 – 0,5g/m3 trong vòng 1-2 ngày liên tục. Kết hợp cho ăn thuốc trị nội ngại ký sinh trùng.

Cần lưu ý trong quá trình nuôi là hạng chế sử dụng kháng sinh quá liều làm ảnh hưởng đối với cá làm cho cá dễ bị dị tật, công thân, cá phát triển chậm… làm tăng giá thành trong vụ nuôi.

6. Thu hoạch.

Ảnh: Phân cỡ khi thu hoạch cá trê vàng thương phẩm

Sau thời gian 3-3,5 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 145 – 200g/con/kg (cỡ mẫu 5-7 con/kg) thì tiến hành thu hoạch, trong quá trình thu hoạch thì cần thu và vận chuyển cá nhẹ nhàn tránh làm cho cá bị xây xát để bán được giá cao cũng đồng thời giảm thất thoát sau khi thu

Bạn đang xem bài viết Kỷ Thuật Nuôi Cá Mú Đen Trong Ao Đất trên website Fcbarcelonavn.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!